



MỞ ĐẦU
Ngày 30/4/1975 đã trở thành một mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc Việt Nam, đánh dấu thắng lợi trọn vẹn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Đó là kết tinh của tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường, sự hy sinh to lớn của bao thế hệ cha ông, những người đã cống hiến tuổi thanh xuân, xương máu cho độc lập, tự do của Tổ quốc.
Hơn hai mươi năm chiến tranh, biết bao người con ưu tú đã anh dũng chiến đấu, sẵn sàng hy sinh với một niềm tin sắt đá vào ngày thống nhất. Những trận đánh hào hùng, những cuộc hành quân gian khổ, những chiến công vang dội trên khắp các chiến trường từ Trường Sơn đến Sài Gòn – Gia Định, từ thành thị đến nông thôn, tất cả đã làm nên một bản hùng ca bất diệt. Không chỉ có những người lính ngoài chiến trường, mà còn có sự đóng góp to lớn của hậu phương, của những người mẹ, người vợ, những thanh niên xung phong, những chiến sĩ cách mạng kiên trung.
Hôm nay, khi đất nước đã hòa bình, phát triển và hội nhập, thế hệ trẻ Việt Nam có trách nhiệm kế thừa tinh thần bất khuất ấy. Không còn bom đạn, nhưng chúng ta vẫn phải đối mặt với nhiều thử thách mới: bảo vệ chủ quyền quốc gia, xây dựng đất nước hùng cường, gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc. Mỗi bạn trẻ hãy biến lòng yêu nước thành hành động cụ thể, nỗ lực học tập, rèn luyện đạo đức, phát huy sáng tạo, góp phần đưa Việt Nam vươn tầm thế giới, xứng đáng với sự hy sinh cao cả của cha ông.
Câu 1: Trung ương Cục miền Nam ra đời trong hoàn cảnh nào? Vai trò của Trung ương Cục miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước?
1. Hoàn cảnh ra đời của Trung ương Cục miền NamBước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Xứ ủy Nam Bộ là cơ quan trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Nam Bộ. Tại Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng, Trung ương Đảng chủ trương thành lập Trung ương Cục miền Nam, tăng cường sự lãnh đạo của Trung ương Đảng đối với chiến trường Nam Bộ. Ngày 07/6/1951, Trung ương Cục miền Nam được thành lập do đồng chí Lê Duẩn làm Bí thư.

Ngày 21/7/1954, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, miền Bắc được giải phóng, miền Nam tạm thời nằm dưới sự chiếm đóng của thực dân Pháp và tay sai. Trước tình hình, nhiệm vụ mới, Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam khoá V, họp ngày 23 tháng 1 năm 1961 đã quyết định thành lập Trung ương Cục miền Nam thay cho Xứ ủy Nam Bộ, thành lập từ tháng 10 năm 1954.
Ngày 21/7/1954, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, miền Bắc được giải phóng, miền Nam tạm thời nằm dưới sự chiếm đóng của thực dân Pháp và tay sai. Trước tình hình, nhiệm vụ mới, Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam khoá V, họp ngày 23 tháng 1 năm 1961 đã quyết định thành lập Trung ương Cục miền Nam thay cho Xứ ủy Nam Bộ, thành lập từ tháng 10 năm 1954.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội III, ngày 23/01/1961, Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) quyết định thành lập Trung ương Cục miền Nam và quy định rõ về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Trung ương Cục miền Nam.
Thời điểm Trung ương Đảng quyết định thành lập Trung ương Cục miền Nam, đế quốc Mỹ và tay sai chưa chuyển sang thực hiện chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, điều đó càng cho thấy tầm nhìn xa trông rộng của Trung ương Đảng. Thực tiễn tổ chức và hoạt động của Trung ương Cục trong 15 năm (1961-1975) đã minh chứng rõ điều đó.

Trung ương Cục miền Nam là cơ quan đầu não lãnh đạo trực tiếp cách mạng miền Nam từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cho đến thắng lợi hoàn toàn, thống nhất đất nước.
Lãnh đạo toàn diện phong trào cách mạng miền Nam. Trung ương Cục miền Nam được thành lập năm 1961, đóng vai trò là cơ quan đại diện của Trung ương Đảng tại chiến trường miền Nam. Cơ quan này trực tiếp chỉ đạo các mặt trận chính trị, quân sự và ngoại giao, tạo sự thống nhất và linh hoạt trong công tác lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ. Nhờ đó, phong trào cách mạng miền Nam phát triển mạnh mẽ, từng bước làm suy yếu chính quyền Sài Gòn và giữ vai trò quan trọng trong kháng chiến chống Mỹ như sau:
Một là, Chỉ đạo đấu tranh vũ trang và xây dựng lực lượng quân sự. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Cục, lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam, đặc biệt là Quân giải phóng miền Nam, được củng cố và phát triển. Cơ quan này chỉ đạo các chiến dịch quân sự quan trọng như Chiến dịch Bình Giã (1964-1965), Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968), Chiến dịch Nguyễn Huệ (1972), góp phần làm thay đổi cục diện chiến tranh, buộc Mỹ phải xuống thang và rút quân khỏi miền Nam.
Một là, Chỉ đạo đấu tranh vũ trang và xây dựng lực lượng quân sự. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Cục, lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam, đặc biệt là Quân giải phóng miền Nam, được củng cố và phát triển. Cơ quan này chỉ đạo các chiến dịch quân sự quan trọng như Chiến dịch Bình Giã (1964-1965), Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968), Chiến dịch Nguyễn Huệ (1972), góp phần làm thay đổi cục diện chiến tranh, buộc Mỹ phải xuống thang và rút quân khỏi miền Nam.
Hai là, tổ chức phong trào đấu tranh chính trị, binh vận. Bên cạnh đấu tranh vũ trang, Trung ương Cục cũng chỉ đạo phong trào đấu tranh chính trị rộng khắp, từ nông thôn đến đô thị. Các phong trào biểu tình, đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, phản đối chính quyền Sài Gòn và sự can thiệp của Mỹ được tổ chức mạnh mẽ, đặc biệt là ở Sài Gòn – Gia Định và các đô thị lớn. Ngoài ra, công tác binh vận được đẩy mạnh, góp phần làm suy yếu tinh thần chiến đấu của quân đội Sài Gòn.
Ba là, xây dựng căn cứ địa, vùng giải phóng. Trung ương Cục miền Nam chỉ đạo xây dựng hệ thống căn cứ địa cách mạng ở Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ... Tiêu biểu là căn cứ Bắc Tây Ninh – "Thủ đô kháng chiến" của miền Nam, nơi đặt trụ sở của Trung ương Cục và các cơ quan đầu não. Các vùng căn cứ này không chỉ là nơi trú ẩn an toàn mà còn là hậu phương vững chắc, cung cấp nhân lực, vật lực cho cuộc kháng chiến.
Bốn là, góp phần vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến. Dưới sự chỉ đạo của Trung ương Cục, phong trào cách mạng miền Nam ngày càng lớn mạnh, tạo tiền đề cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975. Cơ quan này có vai trò quan trọng trong việc tổ chức, lãnh đạo các trận đánh chiến lược, đặc biệt là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng miền Nam đánh thắng những chiến lược chiến tranh của kẻ thù, để tham mưu cho Trung ương Cục lãnh đạo các mặt công tác, Trung ương Cục đã xây dựng các cơ quan giúp việc và các cấp ủy trực thuộc. Trong 15 năm (1961 – 1975), Trung ương Cục miền Nam đã tiến hành 15 lần Đại hội toàn thể và ban hành hàng trăm chỉ thị, nghị quyết…chỉ đạo cách mạng miền Nam. Căn cứ Trung ương Cục trở thành trung tâm đầu não chỉ đạo chiến tranh nhân dân cách mạng miền Nam. Nhiều chủ trương, quyết sách của Đảng và Bác Hồ đã được triển khai cụ thể hóa từ trung tâm này để lan rộng ra toàn chiến tranh miền Nam.
Đồng chí Lê Duẩn – Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng thời kỳ này đã có trên 30 bức thư và điện gửi cho các đồng chí lãnh đạo Trung ương Cục miền Nam để phân tích và làm rõ thêm đường lối của Trung ương Đảng về cách mạng miền Nam. Trong thư ngày 18/01/1968, đồng chí đã nói lên tấm lòng của Bác Hồ đối với đồng bào miền Nam: “Bác Hồ hết sức quan tâm theo dõi cuộc chiến sắp tới. Bác muốn đích thân vào miền Nam để động viên chiến sĩ, đồng bào, nhưng Bộ Chính trị đề nghị Bác chưa nên đi vì cần giữ sức khỏe cho Bác. Tôi tha thiết mong rằng các đồng chí cùng các chiến sĩ, đồng bào miền Nam đoàn kết tinh thần và lực lượng vào trận đánh chiến lược này giành thắng lợi lớn nhất để sớm đón Bác vào thăm”. Năm đó Bác Hồ không vào Nam được nhưng ngọn cờ của Bác dẫn dắt toàn đảng, toàn dân và toàn quân ta làm nên đại thắng mùa Xuân 1975.

Dưới sự chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Trung ương Cục miền Nam đã hoàn thành công cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Thực tiễn sinh động hào hùng nhưng hết sức khó khăn của cuộc kháng chiến đã chứng minh quyết định xây dựng căn cứ Trung ương Cục miền Nam tại Chiến khu Bắc Tây Ninh là một chủ trương đúng đắn sáng tạo của Đảng ta.
Trung ương Cục đã để lại những bài học quý báu, bài học về xây dựng căn cứ địa, xây dựng phong trào cách mạng gắn bó máu thịt với nhân dân. Dân bám đất, Đảng bám dân, du kích, bộ đội bám thắt lưng địch mà đánh. Bài học chủ động tiến công địch về mọi mặt, đánh lùi từng bước, đánh đổ từng bộ phận, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Đặc biệt về bài học xây dựng đảng chặt chẽ, vững vàng về chính trị, giỏi về công tác quần chúng là điều kiện tiên quyết dẫn đến thắng lợi của cách mạng nước ta trước kia cũng như công cuộc đổi mới hiện nay.
Câu 2: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Đồng chí (anh, chị) hãy cho biết hoàn cảnh và ý nghĩa của lời kêu gọi đó đối với xác định đường lối lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng ta?
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định một chân lý vĩ đại của đời sống xã hội loài người, một chân lý của thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” ở thời khắc cực kỳ quan trọng, mang tính bước ngoặt của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng này của Người vừa có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn, mang giá trị nhân văn sâu sắc, là mục tiêu, động lực thúc đẩy sự phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Trong quá trình lãnh đạo nhân dân ta kháng chiến chống xâm lược, rất nhiều lần Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam rất yêu chuộng hòa bình, không muốn chiến tranh, nhưng vì bọn thực dân đế quốc xâm lược đất nước Việt Nam, nô dịch nhân dân Việt Nam, nên người Việt Nam buộc phải đứng lên cầm vũ khí chiến đấu, để giành cho kì được tự do, độc lập.
Có hai thời điểm gay cấn, quan trọng của cách mạng nước ta thể hiện tập trung quan điểm trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thời điểm thứ nhất vào cuối năm 1946, thời điểm thứ hai là năm 1966.
Ngày 2 - 9 - 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt quốc dân đồng bào tuyên bố trước toàn thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và thực sự đã thành một nước tự do, độc lập”. Nhưng sau đó, với bản chất đế quốc, thực dân Pháp đã tìm mọi cách tiêu diệt Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ, trở lại xâm lược nước ta một lần nữa.
Năm 1966, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta bước vào giai đoạn ác liệt nhất, đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh bằng không quân và hải quân đánh phá hòng đưa miền Bắc quay trở lại thời kỳ đồ đá. Mỹ đã sử dụng 15 triệu tấn bom đạn các loại ném xuống Việt Nam, rải hàng chục triệu lít chất độc da cam/dioxin xuống miền Nam; ở miền Bắc, bình quân mỗi người phải chịu 45,5kg bom đạn, tính ra 1km2 chịu 6 tấn bom đạn... Ngày 17-7-1966, lời kêu gọi “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Người được phát trên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam và được đăng trên báo Nhân Dân số 4484 ngày 17-7-1966. Trong lời kêu gọi này, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định quyết tâm chiến đấu của nhân dân ta cả ở miền Bắc cũng như ở miền Nam. Quân và dân miền Nam đoàn kết chặt chẽ, chiến đấu anh dũng đã thắng lợi vẻ vang, thực hiện mục tiêu quyết tâm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới thống nhất nước nhà.

Lời kêu gọi của Bác đã vạch trần âm mưu thâm độc và dã man của đế quốc Mỹ. Khẳng định quyết tâm chiến đấu của nhân dân ta cả ở miền Bắc cũng như ở miền Nam. Chỉ rõ cho toàn thế giới thấy rằng: nhân dân Việt Nam rất yêu chuộng hoà bình. Lời kêu gọi đầy sức thuyết phục của Bác đã chứng minh rằng kẻ thù dù có hung bạo đến đâu, dù có lắm súng nhiều tiền đến đâu thì cũng không thể thắng được Nhân dân Việt Nam
Lời kêu gọi có ý nghĩa như một cuộc vận động lớn để toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tộc thống nhất ý chí, niềm tin để đi vào giai đoạn quyết liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Lời của Bác là lời hiệu triệu thiêng liêng, quy tụ, đoàn kết, thôi thúc hàng triệu con tim, khối óc của đồng bào, chiến sĩ đồng lòng hăng hái chống Mỹ, cứu nước, Người nói:"...Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn".

“Không có gì quý hơn độc lập, tự do” là sự thể hiện ý chí kiên cường, bất khuất đã được hun đúc qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Đó là một chân lý, có giá trị dân tộc, thời đại và thực tiễn sâu sắc, in đậm vào con tim, khối óc của mỗi người dân Việt Nam, trở thành niềm tin, lẽ sống, nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng, mục tiêu và động lực phấn đấu không ngừng của toàn thể nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành lại độc lập, tự do, vì sự tồn tại, phát triển trường tồn của dân tộc.
Câu 3: Đồng chí (anh, chị) hãy cho biết hoàn cảnh ra đời của câu nói “Miền Nam yêu quý luôn ở trong trái tim tôi” của Chủ tịch Hồ Chí Minh và vai trò của hậu phương lớn miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc
1. Hoàn cảnh ra đời của câu nói “Miền Nam yêu quý luôn ở trong trái tim tôi” của Chủ tịch Hồ Chí MinhCâu nói miền Nam yêu quý luôn ở trong trái tim tôi được Chủ tịch Hồ Chí Minh nói năm 1962 khi gặp Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam ra thǎm miền Bắc.

Sau Hiệp định Genève năm 1954, đất nước bị chia cắt thành hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau. Miền Bắc được giải phóng và từng bước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong khi miền Nam vẫn nằm dưới sự thống trị của chính quyền Việt Nam Cộng hòa do Mỹ hậu thuẫn.

Đến cuối những năm 1950, chế độ Ngô Đình Diệm tiến hành hàng loạt cuộc đàn áp khốc liệt nhằm triệt tiêu phong trào yêu nước, khiến tình hình miền Nam ngày càng căng thẳng. Trước thực tế đó, ngày 20/12/1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời với mục tiêu đoàn kết các lực lượng cách mạng, đấu tranh chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn.
Tháng 2/1962, một phái đoàn đại biểu của Mặt trận ra thăm miền Bắc và được Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp đón nồng hậu. Trong cuộc gặp gỡ đầy xúc động, Bác Hồ đã bày tỏ tình cảm sâu sắc đối với đồng bào, chiến sĩ miền Nam và khẳng định: Miền Nam yêu quý luôn ở trong trái tim tôi.
Câu nói Miền Nam yêu quý luôn ở trong trái tim tôi ấy không chỉ thể hiện tình cảm thiêng liêng của Người đối với miền Nam mà còn khẳng định ý chí thống nhất đất nước, cổ vũ tinh thần chiến đấu của nhân dân miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
2. Vai trò của hậu phương lớn miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộcHậu phương là nhân tố quan trọng đối với sự thành bại của chiến tranh, đó là vấn đề mang tính quy luật. Hậu phương là nơi xây dựng và dự trữ tiềm lực của chiến tranh cả về chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa, khoa học kỹ thuật, công nghệ...; là nơi chi viện chủ yếu sức người, sức của cho tiền tuyến, là chỗ dựa tinh thần của tiền tuyến. Vận dụng quy luật này và xuất phát từ tình hình thực tiễn của cách mạng nước ta, sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi, Đảng ta đã đề ra đường lối tiến hành đồng thời và phối hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng ở hai miền nước ta là chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và chiến lược cách mạng XHCN ở miền Bắc.

Phát biểu tại Đại hội thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (tháng 9-1955), Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Miền Bắc là nền tảng, là gốc rễ lực lượng đấu tranh của nhân dân ta. Nền có vững, nhà mới chắc. Gốc có mạnh, cây mới tốt”. Để củng cố miền Bắc thành nền gốc cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà, Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ III (năm 1960), Đảng ta đã chủ trương tiến hành cách mạng XHCN ở miền Bắc. Cách mạng XHCN ở miền Bắc gắn bó chặt chẽ với cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ sự nghiệp cách mạng của cả nước, đối với cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. Đại hội xác định: “Miền Bắc là hậu phương lớn, là căn cứ địa cách mạng của cả nước, là nền tảng, là gốc rễ của lực lượng đấu tranh của nhân dân ta”...
Trên hậu phương miền Bắc, với các phong trào “Mỗi người làm việc bằng hai, vì miền Nam ruột thịt”; “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”; “Tay cày, tay súng”; “Tay búa, tay súng”; “Thanh niên ba sẵn sàng”; “Phụ nữ ba đảm đang”…, không những đã tạo ra rất nhiều cơ sở vật chất để chi viện cho tiền tuyến mà còn tạo ra khí thế thi đua giữa tiền tuyến với hậu phương, động viên những người con của hậu phương trực tiếp chiến đấu ở tiền tuyến.

Nối liền hậu phương miền Bắc với tiền tuyến miền Nam là tuyến giao thông vận tải quân sự chiến lược Trường Sơn và tuyến vận tải chiến lược trên biển mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu.

Trong 16 năm (từ 1959-1975), tuyến vận tải quân sự Trường Sơn đã mở được hơn 16.000km đường cơ giới (gấp 5 lần chiều dài tuyến đường Hồ Chí Minh nối liền 2 đầu đất nước hiện nay), gồm 6 trục đọc, 6 đường vượt khẩu, 7 trục đường ngang nối liền từ hậu phương vào tới các chiến trường, xây dựng hơn 5000km đường ống dẫn xăng dầu từ hậu phương vào tuyến vận tải phía trước, cải tạo và đưa vào khai thác hàng nghìn ki-lô-mét đường sông…
Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, trong l6 năm, tuyến vận tải quân sự chiến lược Trường Sơn đã vận chuyển 1.849.060 tấn vật chất hậu cần, vũ khí, trang bị kỹ thuật, kịp thời chi viện tới các chiến trường miền Nam và hai nước bạn Lào, Campuchia.
Trong nhiều năm, hậu phương miền Bắc vừa sản xuất, vừa chiến đấu, vừa dốc sức người, sức của chi viện chiến trường miền Nam và làm nghĩa vụ quốc tế với hai nước bạn Lào và Campuchia. Quân và dân ta ở miền Bắc đã phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần quật cường, trí thông minh và óc sáng tạo, đánh thắng mọi âm mưu, thủ đoạn đánh phá, mọi bước leo thang, mà đỉnh cao là đánh thắng cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B52 vào Hà Nội, Hải Phòng cuối tháng 12-1972, buộc địch phải ký Hiệp định Pa-ri về Việt Nam. Dưới bom đạn ác liệt của kẻ thù, miền Bắc vẫn tiếp tục xây dựng CNXH. Tiềm lực mọi mặt của miền Bắc ngày càng được tăng cường, tạo cơ sở vững chắc để chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam.

Theo số liệu của Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, hậu phương lớn miền Bắc đã động viên một nguồn nhân lực hơn 3 triệu người phục vụ chiến tranh (chiếm hơn 12% số dân miền Bắc), trong đó, gia nhập quân đội hơn 1,5 triệu người. Ở miền Bắc có tới hơn 70% số hộ gia đình có người thân chiến đấu trên các chiến trường; trên đồng ruộng, phụ nữ chiếm hơn 63% số lao động trực tiếp, để nam giới đi đánh giặc, cứu nước. Ngoài nhân lực, hậu phương lớn miền Bắc đã chi viện cho miền Nam hơn 700.000 tấn vật chất, trong đó có hơn 180.000 tấn vũ khí, trang bị kỹ thuật... Năm 1975, năm cuối của cuộc kháng chiến, tổng số nhân lực miền Bắc động viên theo nhu cầu quốc phòng chiếm tới 30% lực lượng lao động xã hội toàn miền; 60-65% trong số đó vào lực lượng vũ trang.
Hậu phương miền Bắc còn là nơi tiếp nhận chủ yếu sự viện trợ vật chất của quốc tế, nhất là các nước trong phe xã hội chủ nghĩa. Hàng viện trợ này lại từ hậu phương miền Bắc chi viện tới các chiến trường miền Nam.
Đánh giá vai trò của hậu phương lớn miền Bắc đối với sự nghiệp giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Đảng ta đã nhận định: “Không thể nào có thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nếu không có miền Bắc XHCN”.
Bài học xây dựng và phát huy sức mạnh của hậu phương lớn miền Bắc XHCN trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vẫn còn mang tính thời sự trong giai đoạn hiện nay. Cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc (nếu xảy ra) sẽ là cuộc chiến tranh địch sử dụng vũ khí công nghệ cao, kết hợp tiến công hỏa lực từ xa với tiến công đường bộ, đường biển; phối hợp lực lượng phản động bên trong với lực lượng xâm lược từ ngoài, được tiến hành trong thời gian ngắn, không gian mở rộng... Sự thay đổi phương thức tác chiến của đối tượng tác chiến đặt ra cho nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân nói chung, xây dựng hậu phương nói riêng những yêu cầu và nội dung mới. Khái niệm hậu phương trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc cũng có sự thay đổi so với trước kia, nó không chỉ là vùng lãnh thổ nằm ngoài vùng chiến sự như thời chống Mỹ mà cần phải được xây dựng trên các địa bàn chiến lược…
Bài học sâu sắc từ việc xây dựng hậu phương lớn miền Bắc XHCN trong chiến tranh chống Mỹ cần thiết cho việc chuẩn bị cho cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc (nếu xảy ra) là phải phát huy sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước. Mặt khác, cũng cần phải tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, không ngừng xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế và phát huy vai trò nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Đồng bào miền Nam cũng luôn dành những tình cảm yêu quý nhất, kính trọng nhất đối với Người như những câu thơ đầy xúc động của nhà thơ Tố Hữu:“Bác nhớ miền Nam, nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác, nỗi mong cha”
(Bác ơi!)
Câu 4: Đồng chí (anh, chị) hãy cho biết những thắng lợi tiêu biểu của quân và dân ta góp phần đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ và tay sai (1954 -1975)?
Ngày 15/2/1961, tại Chiến khu D, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam được Đảng ta thành lập trên cơ sở thống nhất các lực lượng vũ trang cách mạng tại chỗ và lực lượng tăng viện từ miền Bắc vào. Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam được đặt dưới sự lãnh đạo tập trung, thống nhất về mọi mặt của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và sự chỉ huy thống nhất của Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam, trực tiếp là Trung ương Cục miền Nam và Ban Quân sự Miền - tiền thân của Bộ Chỉ huy Miền (10/1963), sau là Bộ tư lệnh Miền (3/1971).
Ngay khi thành lập, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã liên tiếp lập nhiều chiến công. Tiêu biểu là trận Ấp Bắc (năm 1963), mở ra phong trào “Thi đua Ấp Bắc giết giặc lập công” trên toàn chiến trường miền Nam. Trong Chiến dịch Bình Giã (năm 1965), lần đầu tiên Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam sử dụng hai trung đoàn bộ binh tiến công, đánh bại các chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận” của địch. Tiếp đó là thắng lợi của các chiến dịch Ðồng Xoài (năm 1965), Ba Gia (năm 1965), đánh dấu bước phát triển về tổ chức, chỉ huy và trình độ tác chiến tập trung, góp phần đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ.
Nhằm cứu vãn tình thế thất bại, đế quốc Mỹ đưa quân vào miền Nam Việt Nam, thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”. Ðể đánh thắng chiến lược chiến tranh mới, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tích cực nghiên cứu nắm địch, chủ động phát triển nhanh lực lượng, đẩy mạnh tác chiến. Những chiến thắng Vạn Tường (năm 1965), Pleime (năm 1965)... đã chứng minh bước trưởng thành vượt bậc của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Thắng lợi của Chiến dịch Bàu Bàng - Dầu Tiếng (năm 1965) cũng đã mở ra phong trào “Tìm Mỹ mà diệt”, “Nắm thắt lưng Mỹ mà đánh”.
Phát triển thế tiến công, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam liên tiếp đánh bại hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965 - 1966 và 1966 – 1967 của Mỹ. Trong đó nổi bật là Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã bẻ gãy cuộc hành quân Junction City (năm 1967) với 45.000 quân Mỹ.
Những chiến thắng giòn giã nói trên đã củng cố thêm quyết tâm của Bộ Chính trị về quyết định mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 nhằm mở ra cục diện mới trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã mở màn vào đêm 30 và 31/1/1968. Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và nhân dân ta đã đồng loạt tiến công vào Sài Gòn và hơn 40 thành phố, thị xã khác (4 thành phố, 37 thị xã và hàng trăm thị trấn, 4 bộ tư lệnh quân đoàn, hầu hết các bộ tư lệnh sư đoàn, 30 sân bay và gần 100 cơ sở hậu cần), làm cho Mỹ ngụy và chư hầu bị bất ngờ, không kịp trở tay đối phó. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta không chỉ có ở Tết Mậu Thân, mà trên thực tế đây chỉ là đợt 1, còn đợt 2 và đợt 3 diễn ra mùa hè và mùa thu năm 1968. Kết quả trong năm 1968, quân và dân ta ở miền Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu 630.000 tên Mỹ ngụy và quân của các nước đồng minh Mỹ; tiêu diệt và đánh thiệt hại 1 lữ đoàn, 7 trung đoàn, chiến đoàn, tiểu đoàn bộ binh, 18 chi đoàn thiết giáp; phá hỏng, phá huỷ 13.000 xe quân sự, 1.000 tàu, xuồng chiến đấu trên sông, 700 kho đạn, 100 khẩu pháo các loại; diệt, bức hàng, bức rút 15.000 đồn bốt, chi khu.
Bị thua đau, đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” ở miền Nam, leo thang đánh phá miền Bắc, xâm lược Lào, Campuchia. Bởi vậy, trên chiến trường miền Nam, Bộ Chính trị chủ trương phát triển thế tiến công chiến lược, nhằm thay đổi cục diện chiến tranh có lợi cho cách mạng.
Thực hiện chủ trương trên của Bộ Chính trị, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam mở Cuộc tiến công chiến lược năm 1972. Kết quả, Cuộc tiến công chiến lược năm 1972 đã giành thắng lợi to lớn, làm chuyển biến căn bản cục diện chiến tranh. Ta đã diệt và làm tan rã khoảng 30 vạn quân địch, giải phóng những vùng đất rộng gồm trên 1 triệu dân, đưa tổng số dân được giải phóng lên tới 4 triệu (trong tổng số 11 triệu dân). Bộ đội chủ lực ta trở về miền Nam đứng vững trên những địa bàn quan trọng, bộ đội địa phương và dân quân du kích phát triển. Thắng lợi của cuộc tiến công đã góp phần quyết định buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Paris (ngày 27/1/1973) và rút hết quân ra khỏi miền Nam nước ta.
Vào cuối năm 1974 - đầu năm 1975, nhận thấy tình hình so sánh lực lượng ở miền Nam có sự thay đổi mau lẹ có lợi cho cách mạng, Bộ Chính trị đã đề ra kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam trong hai năm 1975 và 1976. Nhưng Bộ Chính trị cũng nhấn mạnh cả năm 1975 là thời cơ và chỉ rõ nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975.
Sau chiến thắng giòn giã của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam ở chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch Huế - Đà Nẵng, Bộ Chính trị đã nhận định về thời cơ chiến lược đã đến và hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trước mùa mưa. Đồng thời chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định được Bộ Chính trị quyết định mang tên “Chiến dịch Hồ Chí Minh” vào ngày 14/4/1975.
Ngày 7/7/1976, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kết thúc thắng lợi, đất nước thống nhất, nhiệm vụ cách mạng giải phóng dân tộc trên phạm vi cả nước đã hoàn thành, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã trở lại tên gọi Quân đội nhân dân Việt Nam.
Câu 5: Đồng chí (anh, chị) hãy cho biết ý nghĩa của Hiệp định Pari đối với thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước?
Hiệp định Paris được ký kết cách đây tròn nửa thế kỷ (27/1/1973-27/1/2023) đã kết thúc thắng lợi. Cuộc đàm phán dài nhất, phức tạp nhất trong lịch sử ngoại giao Việt Nam để chấm dứt cuộc chiến tranh dài nhất trong thế kỷ XX.
Thắng lợi này có ý nghĩa chiến lược, tạo nên cục diện mới để quân và dân ta tiến lên “đánh cho ngụy nhào” với đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất đất nước, mở ra kỷ nguyên hòa bình, độc lập, thống nhất và phát triển ở Việt Nam.
Chiến thắng vĩ đại này là kết tinh thành quả đấu tranh kiên cường, bất khuất và hy sinh vô cùng to lớn của quân và dân ta trên mặt trận chính trị, quân sự và ngoại giao dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ Đồng khởi Bến Tre năm 1960, đến Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968, Tiến công chiến lược xuân-hè năm 1972 và chiến thắng vang dội 12 ngày đêm “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”.
Hiệp định Paris không chỉ là thắng lợi của nhân dân Việt Nam, mà còn đi vào lịch sử cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập, tự do, tiến bộ và công lý.
Hiệp định Pari năm 1973 - Chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, tạo ra cục diện có lợi cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam.
Ngày 23-1-1973, ký tắt Hiệp định Pari. Ngày 27-1-1973, Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam đã được chính thức ký kết tại trung tâm các Hội nghị quốc tế ở Pari giữa bốn bên tham gia Hội nghị Pari về Việt Nam.
Bản Hiệp định Pari về Việt Nam gồm 9 chương, 23 điều. Nội dung chủ yếu của Hiệp định là: Hoa Kỳ cùng các nước khác cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam. Hoa Kỳ hoàn toàn chấm dứt chiến tranh xâm lược, chấm dứt sự dính líu về quân sự và can thiệp vào nội bộ của miền Nam Việt Nam, tôn trọng quyền tự quyết và bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân miền Nam Việt Nam. Nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của mình thông qua Tổng tuyển cử thật sự tự do và dân chủ. Việc thống nhất nước Việt Nam được thực hiện bằng phương pháp hòa bình.
Ngày 28-1-1973, ngừng bắn trên toàn miền Nam. Ngày 31-1-1973, Tổng thống Nichxơn gửi công hàm cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về việc Hoa Kỳ đóng góp hàn gắn vết thương chiến tranh ở Việt Nam. Ngày 2-3-1973, ký Định ước Pari về Việt Nam. Ngày 29-3-1973, người lính Mỹ cuối cùng rời khỏi miền Nam Việt Nam.
Hiệp định đã buộc Mỹ phải thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, rút hết quân Mỹ và quân chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam. Việc Mỹ phải ký Hiệp định Paris là một thắng lợi to lớn, tạo ra cục diện có lợi cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam.
Hiệp định là một thắng lợi có ý nghĩa lịch sử của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Hiệp định Paris về Việt Nam là thắng lợi tổng hợp của cuộc đấu tranh trên các mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao. Với Hiệp định Paris về Việt Nam, Mỹ buộc phải chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, rút khỏi Việt Nam và Đông Dương, chấm dứt dính líu quân sự, tạo thuận lợi cho cách mạng phát triển; ngụy mất chỗ dựa về quân sự, bị suy yếu và lún sâu vào khủng hoảng chính trị; Mỹ phải lùi về chiến lược, đi sâu vào xu thế rút lui về quân sự khỏi Đông Dương và tránh một Việt Nam thứ hai. Hiệp định Paris là cơ sở pháp lý không cho phép Mỹ tiếp tục dính líu và can thiệp trở lại.
Hiệp định cũng xác nhận thực tế miền Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát; xóa ngụy một bước về pháp lý, ta giữ vững lực lượng quân sự, chính trị của ta, làm cơ sở cho cách mạng miền Nam tiến lên.
Hiệp định mở ra giai đoạn mới, tạo điều kiện cho việc hoàn thành giải phóng miền Nam. Hiệp định buộc Mỹ rút hết, ngụy mất chỗ dựa và suy yếu, ta giữ nguyên lực lượng và lớn mạnh lên, xuất hiện cục diện mới, so sánh lực lượng mới ở miền Nam. Đây là điều kiện cơ bản rất thuận lợi cho ta. Với Hiệp định Paris, nhân dân Việt Nam đã thực hiện được mục tiêu “đánh cho Mỹ cút”, mở ra một giai đoạn mới, tạo so sánh lực lượng mới, thuận lợi cho mục tiêu “đánh cho ngụy nhào”, hoàn thành giải phóng miền Nam. Mỹ rút quân nhưng Việt Nam vẫn giữ nguyên lực lượng chính trị và vũ trang ở miền Nam Việt Nam. Vì vậy, chiến thắng mùa Xuân 1975 hoàn toàn giải phóng miền Nam không tách khỏi thắng lợi của Hiệp định Paris.
Hiệp định Paris 1973 phản ánh thắng lợi ở mức cao trong bối cảnh quốc tế có thuận lợi nhưng cũng phức tạp. Việt Nam đã tranh thủ được cả Liên Xô, Trung Quốc, các nước XHCN, các nước không liên kết, nhân dân thế giới và hình thành trên thực tế “mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược”. Sự hình thành của mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ nhân dân Việt Nam đã thể hiện phương châm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh quốc gia với sức mạnh quốc tế, kết hợp ngoại giao nhà nước với ngoại giao nhân dân.
Hiệp định Paris và việc Mỹ rút khỏi Việt Nam, góp phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng của nhân dân Lào và Campuchia. Tuy Hiệp định không trực tiếp giải quyết vấn đề Lào, Campuchia nhưng buộc Mỹ chấm dứt dính líu quân sự, rút quân khỏi Lào, trực tiếp đưa đến một giải pháp về Lào năm 1973, mở đường cho nhân dân Lào giành thắng lợi hoàn toàn năm 1975.
Đối với Campuchia, Hiệp định đẩy Mỹ đi sâu vào xu thế rút lui về quân sự khỏi Đông Dương, trực tiếp đưa đến việc Mỹ phải chấm dứt ném bom Campuchia ngày 15/8/1973, tạo thuận lợi cho các lực lượng kháng chiến Campuchia giành thắng lợi tháng 4/1975. Hiệp định mở ra thời kỳ chấm dứt hoàn toàn sự dính líu và can thiệp của các nước đế quốc vào Lào, Campuchia và bán đảo Đông Dương.
Hiệp định Paris và thắng lợi của nhân dân Việt Nam góp phần mở ra một chương mới trong cục diện Đông Nam Á: Mỹ rút lui về quân sự khỏi Đông Dương và Đông Nam Á; Khối SEATO (Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á) giải tán; xu thế hòa bình, trung lập phát triển mạnh trong khu vực, mở ra khả năng thiết lập một khu vực hòa bình, hữu nghị ổn định.
Hiệp định Paris phản ánh được ở mức cao nhất thắng lợi và xu thế cuộc đấu tranh của nhân dân ta là Mỹ chấp nhận thất bại, rút lui, ta đứng vững và mạnh lên. Với Hiệp định Paris, ta phát huy thắng lợi trên chiến trường, giành thắng lợi quyết định, buộc Mỹ chấm dứt chiến tranh, rút hết quân. Ta giành thắng lợi trong bối cảnh quốc tế phức tạp, trên chiến trường có nhiều khó khăn nên thắng lợi càng có ý nghĩa to lớn.
Câu 6: Đồng chí (anh, chị) hãy cho biết có mấy Quân đoàn (tương đương Quân đoàn) tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh? Đó là những Quân đoàn nào? Chiến công nổi bật của từng Quân đoàn?
Ngày 14/4/1975, thể theo nguyện vọng của đồng bào, chiến sĩ cả nước, Bộ Chính trị đồng ý Chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định lấy tên là “Chiến dịch Hồ Chí Minh”. Toàn bộ lực lượng tham gia bao gồm bốn quân đoàn (1, 2, 3, 4) và Đoàn 232 (tương đương quân đoàn) cùng các lực lượng vũ trang, nhân dân địa phương.
Chiến công nổi bật của từng Quân đoàn?
1. Quân đoàn 1 là quân đoàn chủ lực cơ động đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, được thành lập ngày 24/10/1973. Tư lệnh, Chính uỷ đầu tiên của Quân đoàn 1 là các đồng chí Lê Trọng Tấn, Lê Quang Hoà.Trong cuộc Tổng tiến công mùa Xuân 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, Quân đoàn 1 vừa thực hiện thắng lợi nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa - hậu phương chiến lược của cả nước, vừa chủ động khắc phục những khó khăn to lớn về cơ động, về hậu cần - kỹ thuật và chuẩn bị chiến trường, đã tổ chức cuộc hành quân “thần tốc” chưa từng có trong lịch sử quân đội ta từ Bắc vào Nam chỉ trong 11 ngày đêm đã vượt chặng đường dài hơn 1.700 km, kịp thời vào trực tiếp tham gia chiến đấu trên hướng Bắc Sài Gòn trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Nhạy bén với tình hình, biết chủ động nắm và chớp thời cơ, hạ quyết tâm chính xác, vận dụng sáng tạo cách đánh, nghệ thuật tác chiến hiệp đồng binh chủng, phù hợp với thực tiễn chiến trường, với lối đánh “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”, Quân đoàn đã kiên quyết tiến công, táo bạo bất ngờ đánh chiếm những mục tiêu quan trọng có tính chiến lược trong hệ thống phòng thủ của địch trên hướng Bắc Sài Gòn; tiêu diệt và bức hàng hoàn toàn Sư đoàn 5 ngụy giải phóng tỉnh Bình Dương; táo bạo thọc sâu đánh chiếm Bộ Tổng Tham mưu - cơ quan đầu não của Quân ngụy Sài Gòn, Quận lỵ Gò Vấp, Tiểu khu Gia Định, góp phần quan trọng giải phóng Sài Gòn - Gia Định, giải phóng hoàn toàn Miền Nam, thống nhất đất nước, xây dựng nên truyền thống vẻ vang “Thần tốc - Quyết thắng” của Quân đoàn.
Ngay sau ngày đất nước được giải phóng, trước yêu cầu khẩn trương của sự nghiệp cách mạng, Quân đoàn 1 lại một lần nữa thực hiện cuộc hành quân “Thần tốc” từ miền Nam trở về miền Bắc làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, cơ động dự bị chiến lược của Bộ. Trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trên các vùng biên giới phía Tây Nam và phía Bắc, Quân đoàn 1 vừa hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ huấn luyện lực lượng tăng cường cho các đơn vị chiến đấu ở tuyến trước, vừa trực tiếp tham gia chiến đấu phòng ngự thay phiên, giữ vững một vùng biên cương Tổ quốc, góp phần quan trọng cùng quân và dân cả nước đánh thắng quân xâm lược, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2. Quân đoàn 2 là quân đoàn chủ lực cơ động của Quân đội nhân dân Việt Nam, được thành lập ngày 17/5/1974, tại Trị - Thiên. Tư lệnh, Chính uỷ đầu tiên của Quân đoàn là các đồng chí Hoàng Văn Thái, Lê LinhSau khi thành lập, quân đoàn đã mở các cuộc tiến công đầu tiên thắng lợi ở Thượng Đức, La Sơn - Mỏ Tàu, mở rộng các vùng giải phóng, đánh bại cuộc phản công của Sư đoàn Dù - con át chủ bài của lực lượng tổng dự bị chiến lược của Quân đội Sài Gòn, góp phần để Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng có thêm căn cứ thực tế khi phân tích tình hình, đánh giá so sánh lực lượng địch - ta và hạ quyết tâm chiến lược chính xác.
Đầu năm 1975, Quân đoàn 2 đã đẩy mạnh các hoạt động phối hợp chiến trường và tác chiến tạo thế ở Nam Thừa Thiên. Khi thời cơ xuất hiện, cùng với các lực lượng của Quân khu Trị - Thiên và Quân khu 5, Quân đoàn đã tiến công liên tục tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ Quân đoàn 1, Quân khu 1 và Sư đoàn hải quân đánh bộ của Quân đội Sài Gòn, góp phần quyết định thực hiện thắng lợi Chiến dịch Trị - Thiên - Huế, giải phóng hoàn toàn Trị - Thiên - Huế và Quảng Nam - Đà Nẵng. Để phát triển ưu thế chiến lược có lợi cho ta trên toàn bộ chiến trường miền Nam, theo Mệnh lệnh của Bộ, Quân đoàn 2 đã tổ chức và thực hiện xuất sắc cuộc hành quân thần tốc trong 18 ngày đêm, tiến công địch trong hành tiến dọc duyên hải miền Trung, góp phần quyết định tiến công đập tan lực lượng, và các tuyến phòng ngự của Địch ở Phan Rang, Phan Thiết, Hàm Tân, giải phóng các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Bình Tuy, khu vực phòng thủ từ xa của Quân Ngụy trên hướng Đông, góp phần làm thay đổi cán cân lực lượng giữa ta và địch ở Nam Bộ, mở thông tuyến đường số 1 kéo dài từ miền Bắc tới tận cửa ngõ phía Đông và Đông Bắc Sài Gòn, mở thêm một tuyến đường tiếp tế hậu cần chiến lược, tạo một thế trận chung thuận lợi cả về chiến lược và chiến dịch.
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, Quân đoàn 2 đã tổ chức đội hình chiến đấu có lực lượng đột kích mạnh gồm xe tăng, pháo binh, pháo phòng không và bộ binh, cùng với quân và dân vùng Đông và Đông Nam Sài Gòn tiến công dũng mãnh, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ lực lượng địch phòng ngự trên hướng này, nhanh chóng đưa lực lượng thọc sâu đánh chiếm nhiều mục tiêu quan trọng, Dinh Độc lập, Phủ Tổng thống chính quyền Sài Gòn bắt Tổng thống và toàn bộ nội các chính quyền Sài Gòn; góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng, Quân đoàn 2 tiếp tục nhận và hoàn thành thắng lợi nhiều nhiệm vụ khác nhau. Đặc biệt trước yêu cầu của cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, Quân đoàn đã thực hiện xuất sắc cuộc hành quân thần tốc từ miền Trung vào mặt trận, phối hợp cùng với các đơn vị bạn, Quân đoàn 2 đã liên tục phản công, tiến công địch, góp phần xứng đáng vào chiến công oanh liệt, đánh bại cuộc tiến công xâm lược của địch ở biên giới Tây Nam và làm tròn nhiệm vụ quốc tế cao cả; giải phóng đất nước Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng, giúp Đảng nhân dân cách mạng Campuchia củng cố chính quyền cách mạng cơ sở.
3. Quân đoàn 3 là quân đoàn chủ lực cơ động của Quân đội nhân dân Việt Nam, được thành lập ngày 26/3/1975. Tư lệnh, Chính uỷ đầu tiên của Quân đoàn 3 là các đồng chí Vũ Lăng, Đặng Vũ HiệpTrong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, Quân đoàn 3 được giao nhiệm vụ đảm nhiệm hướng tiến công chủ yếu nhất của chiến dịch từ Tây Bắc vào Sài Gòn, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 đã nhanh chóng tổ chức quán triệt nhiệm vụ, xây dựng quyết tâm chiến đấu, phương án tác chiến, gấp rút điều động lực lượng từ các hướng cơ động về Tây Bắc Sài Gòn tham gia chiến dịch. Phát huy truyền thống “Quyết thắng, sáng tạo, đoàn kết, thống nhất, nghiêm túc, tự lực”, với phương châm, tư tưởng chỉ đạo tác chiến: “Mạnh bạo, chắc thắng, đánh mạnh, đánh liên tục nắm chắc thời cơ thọc sâu phát triển nhanh”, Quân đoàn 3 đã phối hợp chặt chẽ với các lực lượng vũ trang địa phương, các cánh quân tiến công Sài Gòn từ các hướng, lần lượt đánh chiếm và làm chủ Gò Dầu Hạ, Trảng Bàng, Đồng Dù, Hóc Môn, Trung tâm huấn luyện Quang Trung, sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng Tham mưu Ngụy… hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Trong chiến tranh biên giới Tây Nam, Quân đoàn 3 được lệnh nhanh chóng cơ động lực lượng lên Tây Ninh đánh địch. Với phương châm vừa chiến đấu, vừa xây dựng củng cố, quân đoàn đã mở nhiều chiến dịch và các đợt hoạt động, đánh bại quân địch; đồng thời với tinh thần quốc tế cao cả, Quân đoàn 3 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giúp đỡ lực lượng cách mạng Campuchia phát triển, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi thảm họa diệt chủng. Tháng 7/1979, Quân đoàn 3 cơ động toàn bộ lực lượng từ Campuchia về nước làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, xây dựng chính quy, củng cố nền quốc phòng toàn dân và thế trận chiến tranh nhân dân trên địa bàn chiến lược xung yếu.
4. Quân đoàn 4 là quân đoàn chủ lực cơ động của Quân đội nhân dân Việt Nam, được thành lập ngày 20/7/1974. Tư lệnh và Chính uỷ đầu tiên của Quân đoàn 4 là các đồng chí Hoàng Cầm, Hoàng Thế Thiện.Sau khi thành lập, căn cứ vào kế hoạch chiến lược hai năm 1975 - 1976 và nhiệm vụ chiến đấu trước mắt trong mùa khô 1974 - 1975, Quân uỷ, Bộ Tư lệnh Miền giao nhiệm vụ cho Quân đoàn 4 mở chiến dịch ở Đường số 14 - Phước Long, nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng một đoạn đường số 14; tiếp đó đánh bại quân địch nếu chúng phản kích, giữ vững vùng giải phóng. Bằng cách đánh linh hoạt, mưu trí sáng tạo và dũng cảm Quân đoàn đã giành thắng lợi trong chiến dịch Đường số 14 - Phước Long, phối hợp với Chiến dịch Tây Nguyên và Chiến dịch Huế - Đà Nẵng theo kế hoạch tác chiến chiến lược, vừa tạo địa bàn đứng chân, tập kết lực lượng và mở các hướng tiến công quan trọng cho các lực lượng bạn đánh vào Sài Gòn. Đây là thắng lợi có ý nghĩa như một đoàn trinh sát chiến lược giúp Bộ Chính trị đưa ra quyết định chính xác quyết tâm giải phóng hoàn toàn Miền Nam thống nhất đất nước trong năm 1975.
Ngày 02/4/1975, tại căn cứ Vĩnh An, Thượng tướng Trần Văn Trà, Phó Tư lệnh Bộ Chỉ huy Chiến dịch Giải phóng Sài Gòn giao nhiệm vụ cho Quân đoàn 4 triển khai lực lượng trên hai hướng tiến công chiến lược là Đông và Tây Nam Sài Gòn. Chấp hành mệnh lệnh của Bộ Chỉ huy Chiến dịch và để tạo điều kiện chiến lược cho Chiến dịch Giải phóng Sài Gòn với phương châm tác chiến “Đánh thắng, tiến chắc”, ngày 09/4/1975 các lực lượng của Quân đoàn bắt đầu nổ súng tiến công phòng tuyến Xuân Lộc của quân địch. Sau nhiều lần tiến công quyết liệt, ngày 21/4/1975, Quân đoàn đã đập tan phòng tuyến Xuân Lộc, giải phóng thị xã Xuân Lộc và toàn bộ tỉnh Long Khánh. Với đội hình chiến đấu mạnh, cách đánh linh hoạt, các mũi tiến công của Quân đoàn lần lượt đánh chiếm Trảng Bom, tuyến phòng thủ Hố Nai, khu vực phòng thủ Biên Hoà của địch, phát triển tiến công vào nội thành Sài gòn, cùng với các cánh quân khác kết thúc thắng lợi chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Sau năm 1975 Quân đoàn ngoài làm nhiệm vụ quân quản ở thành phố Sài Gòn - Gia Định, tham gia vào bảo vệ biên giới phía Tây Nam của Tổ quốc, làm tốt nhiệm vụ quốc tế giúp đỡ nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng của chế độ Pôn Pốt - Iêng Xary; đồng thời, quân đoàn còn giúp xây dựng, huấn luyện lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia, xây dựng và củng cố chính quyền mới, góp phần củng cố và thắt chặt hơn nữa tình đoàn kết hữu nghị truyền thống giữa nhân dân hai nước Việt Nam và Campuchia anh em.
Câu 7: Mệnh lệnh lịch sử của Đại tướng Võ Nguyên Giáp “Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa” ra đời trong hoàn cảnh nào? Giá trị lịch sử của lời “Hịch” đó với Đại thắng mùa Xuân năm 1975
1. Hoàn cảnh lịch sử ra đời mệnh lệnh của Đại tướng Võ Nguyên GiápNgày 27/1/1973, Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết. Tuy nhiên, Mỹ - ngụy ra sức phá hoại Hiệp định Paris, đẩy mạnh bình định lấn chiếm, tiếp tục thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.
Trước tình hình đó, tháng 3/1973, Quân ủy Trung ương đã họp và xác định: trong khi địch dùng biện pháp quân sự để đánh ta, ta cần kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị, với pháp lý của Hiệp định Paris, từng bước chuyển sang tiến công chủ yếu bằng chính trị có lực lượng vũ trang làm hậu thuẫn, nhằm thực hiện lập lại hòa bình trên thế có lợi cho ta.
Bước vào mùa khô năm 1974 - 1975, Đảng ta đã nhạy bén phát hiện nhân tố mới xuất hiện trên chiến trường, khẳng định thời cơ chiến lược đã chín muồi. Nên kịp thời hạ quyết tâm chiến lược chính xác và táo bạo, đẩy nhanh đến cao trào, tổng tiến công và nổi dậy trên toàn chiến trường miền Nam. Trong cuộc họp Bộ Chính trị mở rộng ngày 31-3, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đề nghị khẩn trương xây dựng kế hoạch tác chiến, thực hiện bao vây chiến lược ở phía Đông và phía Tây Sài Gòn - Gia Định. Sử dụng nắm đấm chủ lực, bất ngờ thọc sâu tiêu diệt địch với phương châm “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng. Quyết tâm đánh một trận là thắng”.
Ngày 7-4-1975, Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp ký bức điện khẩn với nội dung “thần tốc, thần tốc hơn nữa. Táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng phút, từng giờ, xốc tới miền Nam. Quyết chiến và quyết thắng. Truyền đạt tức khắc đến đảng viên, chiến sĩ” được coi là kim chỉ nam để các cánh quân tiến thẳng vào sào huyệt của kẻ thù.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhớ lại: “Ngay sau Hội nghị Bộ Chính trị (ngày 31/3/1975 với quyết tâm của Bộ Chính trị thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa trong thời gian sớm nhất), tôi suy nghĩ nhiều về trận chiến đấu sẽ diễn ra trên chiến trường trọng điểm Sài Gòn – Gia Định. Sau khi nghiên cứu, trao đổi với Tổng tham mưu phó Cao Văn Khánh và Cục trưởng tác chiến Lê hữu Đức, ngày 1 tháng 4, tôi gọi điện vào B2: Đúng như Bộ Chính trị nhận định, chiến tranh cách mạng ở miền Nam đang bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt. Hiện nay ta đã có đầy đủ lực lượng và khả năng để dành thắng lợi hoàn toàn trong một thời gian ngắn hơn dự kiến rất nhiều.
Vấn đề quyết định là phải kịp thời nắm lấy thời cơ, tranh thủ vào trung tuần tháng 4 thì bắt đầu cuộc tấn công quy mô lớn vào Sài Gòn. Làm được như vậy thì thuận lợi nhất, bảo đảm thắng lợi giòn giã nhất. Bất ngờ hiện nay không còn ở phương hướng nữa. Địch biết nhất định ta sẽ đánh vào Sài Gòn nhưng chúng cho rằng ta cần chuẩn bị một hai tháng. Vì vậy bất ngờ hiện nay chủ yếu là khâu thời gian. Một mặt cần cơ động lực lượng nhanh chóng, thần tốc, mặt khác sử dụng ngay lực lượng hiện có để kịp thời hành động
Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói rõ hơn: “Cuộc tiến công lịch sử của Quang Trung – Nguyễn Huệ lại hiện về trong ký ức. Ngày 4-4, tôi gửi điện cho cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn 2 đang hành quân: Các đồng chí lên đường làm nhiệm vụ rất vẻ vang. Cần hành động thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng…. Ngày 7/4, tôi ra lệnh cho các đơn vị đang đổ vào chiến trường: “Mệnh lệnh: 1. Thần tốc, thần tốc hơn nữa. Táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng giờ, từng phút, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng. 2. Truyền đạt tức khắc đến đảng viên, chiến sĩ”.
2. Giá trị lịch sử của lời “Hịch” đó với Đại thắng mùa Xuân năm 1975Mệnh lệnh lịch sử này đã góp phần quan trọng tạo nên tính lịch sử cho chiến dịch quân sự lớn nhất của Quân đội nhân dân việt Nam.
Bức điện khẩn “Thần tốc, thần tốc hơn nữa…” do tự tay Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Ủy viên bộ Chính trị, Bí thư Quân ủy trung ương, Bộ trưởng bộ Quốc phòng ký tên được Ban Cơ yếu lập tức truyền đi khắp các mặt trận trên toàn miền Nam như một lời hịch tướng sĩ. Mệnh lệnh đã truyền đạt quyết tâm cao nhất của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương tới các cấp lãnh đạo và chỉ huy chiến trường, tới mỗi đảng viên, chiến sĩ để chủ động sáng tạo, thừa thắng, xốc tới, hướng mọi hành động theo phương châm thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng. Và cả dân tộc đã ra quân với khí thế ấy. Tất cả đều thấm nhuần: lúc này, lỡ thời cơ là có tội.
50 năm đã trôi qua kể từ Đại thắng mùa Xuân 1975, đất nước Việt Nam độc lập, thống nhất đã tiến những bước dài chưa từng có trong lịch sử, giành những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới. Ý nghĩa và những bài học lịch sử của cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 vẫn còn nguyên giá trị. Trong đó mệnh lệnh lịch sử “Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa…” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã thể hiện rất sâu sắc và cũng rất tự hào quyết tâm sắt đá không gì lay chuyển nổi của cả một dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ kính yêu trong cuộc chiến tranh giải phóng. Quyết tâm ấy đã được thể hiện trên khắp các chiến trường, huy động sức mạnh quân sự tối đa với sự chỉ huy tài ba, thao lược quả cảm của những tướng lĩnh nắm vững khoa học và nghệ thuật quân sự Việt Nam, dạn dày kinh nghiệm chiến trường, cùng toàn quân, toàn dân vượt qua mọi khó khăn gian khổ dũng cảm chiến đấu hy sinh để giành thắng lợi. Từ ý nghĩa đó, càng thấy rõ: Những mệnh lệnh tăng sức mạnh của cả dân tộc như thế sẽ tạo những bước ngoặt cơ bản để giành thắng lợi có ý nghĩa quyết định trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay!
Câu 8: Đồng chí (anh, chị) hãy trình bày những hiểu biết về chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử và nghệ thuật quân sự của cha ông ta được kết tinh trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ và xây dựng đất nước?
Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử là chiến dịch quân sự cuối cùng của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong Cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 và Chiến tranh Việt Nam, nhằm giải phóng hoàn toàn miền Nam khỏi sự cai trị của chính quyền Sài Gòn và Hoa Kỳ, thực hiện tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào” và thống nhất đất nước. Chiến dịch được đặt tên theo tên của lãnh tụ cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh. Việc quân và dân ta kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ bằng một trận quyết chiến chiến lược với sức mạnh hùng hậu nhất, ý chí quyết tâm cao nhất là thành quả của đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo, độc lập, tự chủ của Đảng được bổ sung, phát triển và dần hoàn chỉnh qua từng giai đoạn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Chiến dịch Hồ Chí Minh được hình thành và triển khai trong bối cảnh lịch sử đặc biệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Sau khi kí Hiệp định Paris vào năm 1973, Mỹ đã rút đại bộ phận quân sự khỏi lãnh thổ Việt Nam, tuy nhiên vẫn tiến hành hậu thuẫn và tiếp tế cho chính quyền Sài Gòn nhằm phá hoại hiệp định Paris và tiếp tục gây chiến tranh xâm lược. Tương quan lực lượng lúc này giữa ta và địch đã có thay đổi căn bản nghiêng về có lợi cho ta, quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã có được những thắng lợi vang dội trên các chiến trường như Tây Nguyên, Huế - Đà Nẵng, Phước Long,… Trong khi đó, ở miền Bắc, ta đã bước đầu xây dựng được cơ sở vật chất cho XHCN và có tiềm lực về kinh tế, chính trị vững mạnh để tiếp tế, cứu trợ, làm hậu phương vững chắc cho miền Nam. Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã đề ra kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam trong hai năm 1975 và 1976. Tuy nhiên, khi thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì phải nhanh chóng giải phóng hoàn toàn miền Nam, cuộc giải phóng diễn ra phải ít đổ máu, gây ít thiệt hại.
Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị, tháng 3-1975, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta bắt đầu diễn ra và giành thắng lợi liên tiếp. Trước diễn biến “một ngày bằng hai mươi năm”, ngày 14-4-1975, Bộ Chính trị quyết định Chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định mang tên Chiến dịch Hồ Chí Minh.
Quân giải phóng tổ chức tấn công từ ba hướng chính. Ở hướng Đông và Đông Nam, Quân đoàn 4 với các Sư đoàn 6, 341 và 7 đã đánh vào Hố Nai, Biên Hòa và căn cứ thiết giáp Yên Thế. Cùng lúc, Quân đoàn 2, bao gồm Sư đoàn 304, 325, 3 cùng các lực lượng địa phương, đã chiếm Bà Rịa, Vũng Tàu, Long Thành và Nhơn Trạch. Các lực lượng vùng ven như Đoàn 113, 116, 10 Đặc công Biệt động cũng đánh chiếm các cầu trên xa lộ.
Chiến dịch Hồ Chí Minh diễn ra qua ba giai đoạn chính với các mũi tấn công quan trọng từ nhiều hướng, dẫn đến thắng lợi hoàn toàn vào ngày 30/4/1975.
Giai đoạn thứ nhất (từ 17 giờ đến 24 giờ ngày 26/4): hướng Tây và Tây Nam, Đoàn 232 với các Sư đoàn 5, 3, 9 cùng Trung đoàn 24, 88 đã cắt đứt Quốc lộ 4, vượt sông Vàm Cỏ để chuẩn bị thọc sâu vào phía Nam Sài Gòn. Hướng Bắc và Tây Bắc chứng kiến sự tấn công của Quân đoàn 3, trong đó Sư đoàn 316 cùng lực lượng địa phương cắt Quốc lộ 22, bao vây và giải phóng thị xã Tây Ninh. Trong khi đó, Quân đoàn 1 với Sư đoàn 312, 320 đã bao vây Phú Lợi, chốt Đường 13, chặn Sư đoàn 5 của địch và phối hợp với lực lượng vũ trang Thủ Dầu Một để giải phóng Tây – Nam Bến Cát và Tân Uyên. Đoàn 115 làm chủ xa lộ Đại Hàn, mở cửa phía Bắc sân bay Tân Sơn Nhất.
Giai đoạn thứ hai (ngày 29/4): Quân đoàn 4 tiếp tục đánh mạnh vào căn cứ thiết giáp của Sư đoàn 18 địch, phát triển tấn công Hố Nai, Trảng Bom và Sở chỉ huy Quân đoàn 3 ngụy. Trong khi đó, Quân đoàn 2 mở rộng kiểm soát khu vực Đông Nam với Sư đoàn 304 chiếm căn cứ Nước Trong và ngã ba Long Bình, Sư đoàn 324 làm chủ Nhơn Trạch và Thành Tuy Hạ, đồng thời bắn pháo vào sân bay Tân Sơn Nhất. Sư đoàn 3 chiếm Vũng Tàu, trong khi Lữ đoàn xe tăng 203 và Trung đoàn 66 chuẩn bị thọc sâu vào nội đô. Ở hướng Bắc và Tây Bắc, Quân đoàn 3 tấn công mạnh mẽ: Sư đoàn 320 đánh chiếm căn cứ Đồng Dù, Sư đoàn 316 kiểm soát Trảng Bàng và Bắc Củ Chi, tiêu diệt Sư đoàn 25 ngụy. Trong khi đó, Sư đoàn 10 đánh chiếm Cầu Bông và Trung tâm Huấn luyện Quang Trung, tiến gần Bà Quẹo. Quân đoàn 1 tiếp tục cắt Quốc lộ 13, đánh chiếm Tân Uyên và tiến về Lái Thiêu. Các lực lượng vùng ven cũng đẩy mạnh chiến đấu, tiến sát các cửa ngõ nội đô. Ở hướng Tây và Tây Nam, các Sư đoàn 3, 5, 8 và các trung đoàn đặc công liên tục cắt đứt đường tiếp viện của địch, chiếm các vị trí chiến lược như thị xã Hậu Nghĩa, Đức Hòa, Đức Huệ và tiến sát Nam Sài Gòn.
Giai đoạn thứ ba (ngày 30/4): Vào sáng 30/4, Quân đoàn 2 với mũi thọc sâu được lực lượng đặc công dẫn đường đã nhanh chóng tiến vào nội đô theo xa lộ, vừa chiến đấu vừa hành tiến. Đến 10 giờ 30, lực lượng này tiến vào Dinh Độc Lập, và đến 11 giờ 30, lá cờ cách mạng đã tung bay trên nóc Dinh, đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của chính quyền Sài Gòn. Sau đó, các đơn vị tiếp tục chiếm Đài Phát thanh, Bộ Quốc phòng ngụy, Bộ Tư lệnh Hải quân và Thương cảng Sài Gòn. Ở hướng Bắc và Tây Bắc, Quân đoàn 3 và Quân đoàn 1 hoàn thành các mục tiêu trọng yếu như Sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng Tham mưu ngụy, Lăng Cha Cả, Quận 3 và Phú Nhuận. Ở hướng Tây và Tây Nam, Sư đoàn 9 sau khi vượt sông đã đánh chiếm Biệt khu Thủ đô ngụy, tiến công Bộ Tư lệnh Cảnh sát Quốc gia, sau đó hợp điểm với các đơn vị bạn tại Dinh Độc Lập. Các lực lượng khác tiếp tục giải phóng các khu vực ngoại vi và tiến vào nội đô.
Đến 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, quân ta đã đánh chiếm tất cả các mục tiêu chiến lược, hoàn thành thắng lợi chiến dịch Hồ Chí Minh. Cùng thời điểm, hàng loạt tỉnh thành Nam Bộ như Long An, Bình Dương, Tây Ninh, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Gò Công, Mỹ Tho, Kiến Phong và đảo Phú Quốc đã được giải phóng. Ngày 1/5/1975, quân ta tiếp tục giải phóng các tỉnh còn lại như Vĩnh Long, Bến Tre, Kiến Tường, Cà Mau, Long Xuyên, Châu Đốc, và đảo Côn Sơn, chính thức kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thống nhất đất nước.
Kết quả của Chiến dịch Hồ Chí Minh là ta giải phóng hoàn toàn thành phố Sài Gòn – Chợ Lớn, đòn quyết định làm tan rã toàn bộ ngụy quân, ngụy quyền. Ta tiêu diệt khoảng 15.700 quân địch, bắt sống 160.000 quân địch, thu giữ 276.000 khẩu súng, 518 khẩu pháo, 409 xe tăng - xe thiết giáp, 858 máy bay, 647 tàu - xuồng chiến đấu, 3.296 xe ô tô và toàn bộ kho tàng của địch. Ta chỉ mất khoảng 6.000 quân chết và bị thương, 29 xe tăng bị phá huỷ.
Chiến dịch Hồ Chí Minh được chuẩn bị kỹ lưỡng và thực hiện nhanh chóng, táo bạo, bất ngờ và chắc thắng. Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã phá vỡ các tuyến phòng ngự của quân Sài Gòn từ xa đến gần, cắt đứt các tuyến giao thông và tiếp tế của địch, khơi dậy khối lực dân tộc trong thành phố Sài Gòn và các tỉnh miền Đông Nam Bộ. Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam cũng đã thu giữ được rất nhiều vũ khí, trang thiết bị và kho tàng của quân Sài Gòn và Hoa Kỳ, gây ra tổn thất lớn cho kẻ thù về mặt nhân lực và vật lực.
Nghệ thuật quân sự Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung, trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử nói riêng có bước phát triển rực rỡ, đạt tới những đỉnh cao chưa từng có, góp phần quan trọng cùng quân và dân cả nước giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Vì vậy, những nét đặc sắc của nghệ thuật ấy, cần được nghiên cứu, vận dụng vào công tác huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu của các quân đoàn chủ lực hiện nay.
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, Đảng ta đã vận dụng, phát triển sáng tạo nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân trên một địa bàn và tình huống cụ thể; một trong số đó là nghệ thuật kết hợp chặt chẽ giữa chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, chiến tranh nhân dân địa phương với tác chiến bằng các binh đoàn chủ lực và đã giành thắng lợi to lớn. Theo đó, cùng với lực lượng tại chỗ, chúng ta đã sử dụng 05 binh đoàn chủ lực thực hành tiến công trên 05 hướng; hình thành thế kết hợp giữa tiến công và nổi dậy, tạo sức mạnh tổng hợp để đánh bại kẻ thù. Điều đáng nói là, chúng ta đã giải quyết thành công các vấn đề lớn, như: kết hợp giữa chuẩn bị lực lượng với tạo lập thế trận trên phạm vi chiến lược; giữa cơ động với tập trung binh lực, hỏa lực và phát huy sức mạnh tổng hợp trong điều kiện hết sức khẩn trương, v.v. Và thực tiễn đã cho thấy, tuy xuất phát ở các vị trí khác nhau, thậm chí cách xa mục tiêu hàng nghìn ki lô mét, nhưng các quân đoàn vẫn bảo đảm hội quân đúng thời cơ, tạo nên những quả đấm thép, đập tan dinh lũy cuối cùng của địch để giành chiến thắng.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (12-1976) của Đảng đã khẳng định: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.
Có được thắng lợi này, một trong những nguyên nhân, đồng thời cũng là nét độc đáo, đặc sắc nhất của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa Xuân 1975. Từ thực tiễn cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc, chúng ta có thể rút ra một số vấn đề cơ bản của nghệ thuật quân sự Việt Nam là:
Thứ nhất, về nghệ thuật tổ chức lực lượng toàn dân đánh giặc.
Nghệ thuật nghệ thuật quân sự của ta là nghệ thuật tổ chức toàn dân đánh giặc. Nó khác hẳn với nghệ thuật quân sự của kẻ xâm lược - nghệ thuật tổ chức lực lượng quân sự nhà nghề với những cỗ máy chiến tranh khổng lồ, chuyên nghiệp.
Đối tượng của nghệ thuật tổ chức, sử dụng lực lượng của ta là toàn dân. Ta tổ chức lực lượng theo cấu trúc toàn dân đánh giặc; bao gồm lực lượng vũ trang ba thứ quân gắn liền với lực lượng kháng chiến của từng huyện, tỉnh, thành phố; kết hợp chặt chẽ với bộ đội chủ lực. Đó là nghệ thuật tổ chức có tính khoa học, tính thống nhất và chặt chẽ, làm cho toàn dân ta triệu người như một, tạo sức mạnh tổng hợp lớn nhất để đánh địch, thắng địch. Đi đôi với nghệ thuật tổ chức lực lượng, ta xác định hai hình thức đấu tranh chủ yếu: đấu tranh quân sự kết hợp đấu tranh chính trị; hai phương thức tác chiến cơ bản: tác chiến tập trung và tác chiến du kích. Với nghệ thuật tổ chức và vận dụng các hình thức, phương thức tác chiến như thế, ta đã xây dựng được thế trận chiến tranh nhân dân “thiên la địa võng”, rộng khắp, vững chắc, nhưng mạnh ở trọng điểm. Điều đó lý giải vì sao ta có thể "Mở mặt trận ở bất cứ nơi nào có bóng địch, đánh ngay ở cả sau lưng địch, trong trung tâm phòng ngự của địch" và “Kéo địch ra khỏi hang ổ mà đánh, căng địch ra mà đánh, luồn sâu vào hậu phương địch mà đánh...". Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuâ năm 1975, bảo đảm cho ta luôn đánh địch ở thế chủ động, càng đánh càng mạnh. Ngược lại, địch luôn ở thế bị động, càng đánh càng bộc lộ sơ hở, càng đánh càng bị dồn vào nguy cơ thất bại. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử nhờ nghệ thuật tổ chức toàn dân đánh giặc mà ta vừa có điều kiện tập trung đánh lớn ở các thành phố lớn, tiêu diệt và bắt sống hàng nghìn tên địch; đồng thời, vừa có điều kiện đánh địch rộng khắp, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm nghìn tên địch ở các chiến trường khác. Nhờ nghệ thuật tổ chức toàn dân đánh giặc, ta đã kết thành lưới lửa của thế trận chiến tranh nhân dân, diệt hàng nghìn máy bay, tàu chiến, đánh bại hoàn toàn ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, khiến Mỹ -ngụy từng bước rơi vào cơn khốn quẫn và kết cục thất bại cả về quân sự và chính trị. Như vậy, có thể nói, đây là nét độc đáo và đặc sắc nhất của nghệ thuật tổ chức toàn dân đánh giặc của ta đã đánh thắng chiến tranh xâm lược bằng lực lượng quân đội nhà nghề của địch.
Thứ hai, nét độc đáo của nghệ thuật tác chiến chiến lược.
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa Xuân 1975, ta tiến hành 3 chiến dịch lớn với 3 đòn chiến lược: Chiến dịch Tây Nguyên. Chiến dịch chiến lược Huế - Đà Nẵng và Chiến dịch quyết chiến chiến lược Hồ Chí Minh. Ba đòn chiến lược đó thể hiện được phương thức nghệ thuật tác chiến chiến lược hay của ta. Xuất hiện từ đường lối chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, với hai lực lượng, ba thứ quân, tác chiến cài xen kẽ với địch không phân tuyến của ta, làm cho địch bị phân tán, chia cắt, bị động; còn ta thì chủ động tập trung lực lượng, cơ động linh hoạt.
Trên cơ sở của đường lối chiến tranh đó, nghệ thuật tác chiến chiến lược của ta là nghệ thuật của chiến tranh nhân dân, là kết hợp chặt chẽ giữa chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, giữa quân sự với chính trị; tiến hành tác chiến trên toàn bộ chiến trường; đánh địch trên toàn bộ chiến tuyến, đánh cả ở phía trước mặt địch và đằng sau lưng địch, trên cả 3 vùng chiến lược.
Tiến công chiến lược là phải phá vỡ chiến lược, tiêu diệt lực lượng tiến công chiến lược của địch, giải phóng những vùng đất đai quan trọng, đánh bại biện pháp chiến lược của địch, làm suy sụp ý chí chiến đấu của chúng, làm lung lay quyết tâm chiến lược của địch. Tổng tiến công chiến lược là phá vỡ nhiều mảng chiến lược của địch, đi đến phá vỡ toàn bộ chiến lược của địch, tiêu diệt các lực lượng chiến lược chủ yếu của chúng, giải phóng phần lớn lãnh thổ, đánh chiếm thủ đô, sảo huyệt cuối cùng của địch, đánh bại mọi biện pháp thủ đoạn chiến lược của địch, làm mất ý chí đề kháng của địch, đi đến kết thúc chiến tranh.
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa Xuân năm 1975, ta đã bố trí được 2 Tập đoàn chiến lược ở 2 đầu chiến tuyến, và 1 Tập đoàn chiến dịch ở quãng giữa chiến tuyến. Tập đoàn chiến lược thứ nhất gồm quân đoàn 2 cùng các sư đoàn, trung đoàn và lực lượng vũ trang địa phương của 2 quân khu Trị - Thiên và quân khu ở vùng Huế - Đà Nẵng. Tập đoàn chiến lược thứ 3 vũ trang địa phương của Quân khu 7 đứng chân ở chung quanh Sài Gòn. Tập đoàn chiến lược thứ 3, gồm 2 sư đoàn và các trung đoàn của mặt trận Tây Nguyên cùng sư đoàn 3 Sao Vàng của Quân khu 5 và các lực lượng vũ trang địa phương của các tỉnh Tây Nguyên và Bình Định, Phú Yên, Nha Trang đứng chân ở địa bàn Tây Nguyên.
Tuy vậy, ta cũng chưa có đủ khả năng sử dụng phương pháp tiến công chiến lược đồng thời trên toàn bộ chiến tuyến của địch, mà mới nhằm vào điểm yếu sơ hở, bất ngờ, tiến công phá vỡ chiến lược ở Tây Nguyên, còn các chiến trường khác chỉ đánh nhỏ để phối hợp, bảo đảm cho Tây Nguyên dành thắng lợi.
Cuộc Tổng tiến công phát triển thật mạnh mẽ. Từ cuối tháng 2, đầu tháng 3 năm 1975 ta tiến hành tác chiến nghi binh tạo thế trên chiến trường Tây Nguyên và trên khắp cả chiến trường, tạo thuận lợi cho trận đánh Buôn Ma Thuột. Được thế lợi đó, trận đánh Buôn Ma Thuột bắt đầu từ 2 giờ sáng ngày 10-3, đến trưa 11-3-1975 dành thắng lợi giòn rã, giải phóng hoàn toàn thị xã Buôn Ma Thuột. Nhịp độ tiến công rất nhanh, mạnh. Ngày 29-3-1975 ta giải phóng Đà Nẵng, đến ngày 3-4-1975, ta đã giải phóng Cam Ranh. Một vùng chiến lược đặc biệt quan trọng được giải phóng từ Tây Nguyên, Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Nha Trang, Cam Ranh, Lâm Đồng v.v… và tiêu diệt 2 quân khu - quân đoàn của địch là Quân khu 1 và quân khu 2.
Thứ ba, về tạo lập thế trận tác chiến chiến lược để giành thắng lợi quyết định.
Trong giai đoạn Tổng tiến công chiến lược, ta tổ chức từ 2 Tập đoàn quân chiến lược trở lên là rất cần thiết để tạo lập và chuyển hoá thế trận tác chiến chiến lược đẩy mạnh nhịp độ tiến công với tốc độ cao và làm cho kẻ địch khó có bề chống cự rồi bị đánh bại nhanh chóng. Tạo lập thế trận tác chiến chiến lược phải theo quyết tâm đánh vào đâu trước, hướng tiến công chủ yếu và mục tiêu chủ yếu đánh vào đâu? Các hướng tiến công khác ở đâu để phối hợp? Và các bước tiếp theo đánh vào vị trí chiến lược nào để phát triển nghệ thuật quân sự trong tác chiến chiến địch, rồi từ mưu kế mà chuyển hoá thế trận. Tạo lập thế trận thế linh hoạt, hợp lý có lợi để thực hiện thắng lợi mưu kế và quyết tâm.
Nét độc đáo trong tạo lập thế trận của ta là thế trận của chiến tranh nhân dân đã được xây dựng từ đầu cuộc chiến tranh. Ta tiến công địch bằng 2 lực lượng, 3 thứ quân, trên cả 3 vùng chiến lược và tác chiến cài xen kẽ với địch trên toàn bộ chiến tuyến. Do chiến tranh nhân dân phát triển cao, nên các binh đoàn chủ lực của ta đã đứng chân ở phía nam vĩ tuyến 17, lập thế tiến công ở phía tây chiến tuyến của địch từ vĩ tuyến 17 đến Sài Gòn, đến đồng bằng sông Cửu Long. Các binh đoàn chủ lực của ta không tiến công địch từ phía bắc vĩ tuyến 17. Không đánh vào chiều dọc chiến tuyến của địch có chiều sâu lớn mà từ các bàn đạp chiến tuyến của địch, chỉ cách Huế - Đà Nẵng có ba bốn chục km ở phía tây. Thậm chí các binh đoàn chủ lực của ta cũng có mặt sát gần ngay Sài Gòn, chỉ cách phía tây Sài Gòn khoảng 50 đến 60 km. Nếu các binh đoàn chủ lực của ta phát động cuộc tiến công từ phía bắc vĩ tuyến 17, đánh theo dọc chiến tuyến có độ dày lớn của địch từ Quảng Trị đến Huế, Đà Nẵng, Nha Trang thì đến bao giờ ta mới đánh tới Sài Gòn - tuy là có mũi vu hồi chiến dịch và chiến lược.
Thế trận chiến lược trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa Xuân năm 1975 là một thế trận triển khai từ Quảng Trị qua Tây Nguyên đến Sài Gòn và đồng bằng Nam Bộ. Một thế trận không đánh từ phía Bắc, từ Quảng Trị qua Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Tây Nguyên, đánh thẳng vào trận tuyến của địch trên đường số 1 rồi cùng với Tập đoàn chiến lược phía nam đã đứng chân sẵn ở phía bắc Sài Gòn, tập trung một lực lượng lớn giáng một đòn sấm sét vào Sài Gòn, giải phóng nhanh gọn Sài Gòn.
Tạo lập thế trận tác chiến chiến lược như thế, ta đồng thời đánh trên toàn tuyến Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Quy Nhơn và phía bắc, phía tây Sài gòn, làm cho địch lúng túng, bị động phải phân tán đối phó theo cách của ta, rồi ta tập trung lực lượng đánh đòn chiến lược thứ nhất giải phóng Tây Nguyên và đánh đòn thứ 2 gối đầu ngay, giải phóng Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, rồi phát triển thắng lợi giải phóng Tuy Hòa, Phú Yên, Nha Trang, Cam Ranh. Trên đà thắng lợi đó, ta dồn tất cả lực lượng, cả Quân đoàn tổng dự bị chiến lược và lực lượng ở đồng bằng sông Cửu Long, cùng Tập đoàn chiến lược phía nam đã đứng chân sẵn ở ngoại vi Sài Gòn, thực hành đòn chiến lược thứ 3 then chốt quyết định, giải phóng Sài Gòn một cách nhanh gọn.
Nghệ thuật tạo lập thế trận tác chiến chiến lược mùa Xuân 1975 là một nghệ thuật độc đáo, tài tình và cũng đầy sáng tạo của chiến tranh nhân dân Việt Nam, ít thấy trong chiến tranh. Do đó, chỉ trong 56 ngày đêm ta đã giải giải phóng được miền Nam một cách ít tổn thất, thương vong. Đây là nét độc đáo, sáng tạo nhất của nghệ thuật quân sự Việt Nam được phát triển cao trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Ngoài ra, chiến thắng của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý cho các thế hệ cán bộ, chiến sĩ hôm nay, cần được tiếp tục nghiên cứu, kế thừa và vận dụng, phát triển trong điều kiện tác chiến mới. Tổ chức hành quân thần tốc từ xa, trên nhiều hướng để tập trung lực lượng trong điều kiện vô cùng khó khăn, ác liệt. Đây là một trong những nét đặc sắc nhất của nghệ thuật quân sự trong chiến tranh giải phóng khi thời cơ đã chín muồi. Trong bối cảnh trận quyết chiến chiến lược đang đến thật gần; yêu cầu tập trung lực lượng, tạo ưu thế vượt trội để đánh đòn quyết định trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã tổ chức những cuộc hành quân thần tốc với đội hình lớn cả về lực lượng và phương tiện để chạy đua với thời gian. Điển hình là cuộc hành quân gấp của Quân đoàn 1 vượt quãng đường 1.700 km từ miền Bắc vào chiến trường miền Đông Nam Bộ trong vòng 12 ngày đêm; Quân đoàn 2 vừa tiến công, vừa cơ động từ duyên hải miền Trung vào cửa ngõ phía Đông, Đông Nam Sài Gòn; Quân đoàn 3 từ Tây Nguyên cơ động xuống tập kết ở Bắc, Tây Bắc Sài Gòn, v.v. Đánh giá đúng tình hình, tạo lập thế trận tiến công vững chắc, hiểm hóc và toàn diện. Trên cơ sở đánh giá đúng mạnh, yếu của địch, các đơn vị nhanh chóng làm công tác chuẩn bị, xây dựng thế trận tác chiến phù hợp; dựa vào thế trận của lực lượng tại chỗ, củng cố, bổ sung, phát triển vững chắc, hiểm hóc và toàn diện hơn, phù hợp với thế trận hiệp đồng binh chủng. Trong đó, thế trận của các binh đoàn chủ lực được triển khai vững chắc theo 05 hướng, kết hợp với thế trận của dân quân du kích bám trụ, triển khai đánh sâu, đánh hiểm, hình thành thế trận tiến công rộng khắp, nhưng tập trung, có trọng điểm, đột phá, thọc sâu đánh chiếm các mục tiêu chủ yếu trong nội đô, trong đó có cơ quan đầu não của ngụy quân, ngụy quyền. Tập trung lực lượng, phương tiện, kết hợp bao vây, chia cắt với thọc sâu tiêu diệt mục tiêu chủ yếu, giành thắng lợi quyết định. Dựa vào thế trận vững chắc, trên từng hướng tiến công, các binh đoàn cơ động và các binh đoàn bố trí tại chỗ đã đánh thẳng vào các mục tiêu đô thị, các trung tâm và các căn cứ quân sự lớn của địch. Bằng các hình thức tác chiến bao vây, chia cắt, kết hợp với thọc sâu vào mục tiêu chủ yếu, các binh đoàn đã tiêu diệt và làm tan rã từng mảng lớn sinh lực địch, phá vỡ từng tập đoàn phòng ngự chiến lược của chúng, giành thắng lợi to lớn, kết thúc chiến tranh.
Câu 9: Trong Đại thắng mùa Xuân 1975, có một chiến công đặc biệt xuất sắc khẳng định chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc - đó là chiến công nào? Trách nhiệm của thanh niên quân đội và thế hệ trẻ trong với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển đảo Tổ quốc hiện nay?
1. Chiến công đặc biệt xuất sắc khẳng định chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc trong Đại thắng mùa Xuân 1975Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, khi các cánh quân tập trung đồng loạt tiến về giải phóng Sài Gòn, Bộ Chính trị cũng đã chủ trương giải phóng toàn bộ các đảo trên quần đảo Trường Sa do quân đội Việt Nam Cộng hòa chiếm giữ nhằm giành thắng lợi trọn vẹn cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Chủ trương này thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng trong việc quyết tâm giành lại toàn bộ chủ quyền lãnh thổ trên đất liền cũng như các đảo và vùng biển, vùng trời của Tổ quốc.
Quần đảo Trường Sa có trên 100 đảo lớn nhỏ, bãi đá và bãi san hô ngầm, với diện tích khoảng 180.000 km2 ở giữa Biển Đông. Quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Thời điểm cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, khi quân và dân ta tiến hành các chiến dịch lớn nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, quần đảo Trường Sa chỉ 11 đảo có người. Trong đó, quân đội Việt Nam Cộng hòa đóng giữ 5 đảo gồm: Nam Yết, Trường Sa, Sơn Ca, Sinh Tồn và Song Tử Tây. Đảo Nam Yết được đặt Sở chỉ huy trung tâm. Đối với đảo An Bang, lúc này, chính quyền Sài Gòn mới tiến hành cắm cột mốc chủ quyền nhưng chưa cử người đóng giữ. Tổng quân số của quân đội Việt Nam Cộng hòa khoảng 160 người thuộc Tiểu đoàn 371 địa phương quân Phước Tuy.
Từ tháng 10-1974, Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân qua công tác địch tình đã đề xuất ý kiến giải phóng Trường Sa và được Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nhất trí về mặt chủ trương. Tuy nhiên, do bận tập trung các mặt trận khác nên Đại tướng chưa chỉ đạo cụ thể.
Đến cuối năm 1974, Cục Tác chiến và Cục Quân báo đều nhận thấy sự suy yếu rõ rệt trên mọi hướng của chính quyền và quân đội Sài Gòn, trong đó có cả hướng biển. Tiếp tục theo dõi và nắm bắt tình hình, đến ngày 24-3-1975, sau khi ta giải phóng Buôn Ma Thuột, đồng chí Lê Hữu Đức, Cục trưởng Cục Tác chiến, đề đạt ý kiến với Bộ Tổng tham mưu: đây là thời điểm thuận lợi cho ta giải phóng các đảo trên quần đảo Trường Sa do quân đội Việt Nam Cộng hòa đang chiếm giữ. Bộ Tổng Tham mưu thống nhất với ý kiến này và sau đó kiến nghị lên Quân ủy Trung ương, Bộ Chính trị.
Tại cuộc họp ngày 25-3-1975, Bộ Chính trị đã đồng ý với kiến nghị của Quân ủy Trung ương và được ghi vào nghị quyết: “Vừa chuẩn bị cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, vừa tiến hành giải phóng các đảo và quần đảo quân ngụy đang chiếm giữ”. Đây là chủ trương rất đúng đắn và sáng suốt của Đảng.
Ngày 30-3-1975, trên cơ sở chủ trương của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương gửi điện cho các đồng chí Võ Chí Công - Chính ủy Quân khu và đồng chí Chu Huy Mân - Tư lệnh Quân khu 5: “Thường vụ giao cho Khu ủy và Bộ Tư lệnh B1 nhiệm vụ nghiên cứu, chỉ đạo thực hiện gấp rút, nhằm thời cơ thuận lợi nhất, đánh chiếm các đảo hiện do quân ngụy miền Nam chiếm đóng thuộc quần đảo Nam Sa”.
Ngày 2-4-1975, sau khi nghe đồng chí Lê Trọng Tấn, Tư lệnh cánh quân phía Đông, báo cáo về thắng lợi của chiến dịch Huế - Đà Nẵng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp trực tiếp chỉ thị: “tổ chức tiến công giải phóng các đảo, đặc biệt là quần đảo Trường Sa” vì vùng quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam và “theo thăm dò, triển vọng ở đây có dự trữ dầu lửa lớn. Với tầm nhìn chiến lược, có thể thấy biển và đại dương sẽ là nguồn tài nguyên chủ yếu của nhân loại kể từ thế kỷ XXI”. “Phải nắm lực lượng ở Khu 5 và Hải quân để tổ chức tiến công giải phóng các đảo, đặc biệt là quần đảo Trường Sa”.
Tiếp theo, 17 giờ 30 phút, ngày 4-4-1975, Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi Mật điện số 990B/TK cho Khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 5: “Thực hiện kịp thời đánh chiếm các hòn đảo ở vùng Nam Hải, đặc biệt là các đảo Nam Sa. Việc này phải chuẩn bị gấp và bí mật, chỉ để cán bộ có trách nhiệm biết” và giao nhiệm vụ “Nghiên cứu và chỉ đạo thực hiện gấp rút, nhằm thời cơ thuận lợi nhất đánh chiếm các đảo do quân ngụy miền Nam chiếm đóng thuộc quần đảo Trường Sa, không cho bất cứ kẻ nào xâm chiếm các nơi đó. Đây là nhiệm vụ rất quan trọng”.
Quá nửa đêm ngày 5/4/1975, Bộ Tư lệnh Hải quân nhận được chỉ thị của Bộ Tổng Tham mưu khẩn trương chuẩn bị lực lượng giải phóng quần đảo Trường Sa. Chấp hành mệnh lệnh trên, Bộ Tư lệnh Hải quân khẩn trương chuẩn bị lực lượng làm nhiệm vụ giải phóng quần đảo Trường Sa, một nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa chiến lược cả về chính trị, quân sự và kinh tế, góp phần giải phóng hoàn toàn đất nước. Quyết tâm của Đảng ủy, Bộ Tư lệnh là bám sát tình hình, tranh thủ thời cơ có lợi nhất để giải phóng đảo, kiên quyết không để lực lượng nào khác đến đánh chiếm đảo trước ta. Nhiệm vụ đánh chiếm đảo rất khẩn trương, Bộ Tư lệnh cử đồng chí Hoàng Hữu Thái - Phó Tư lệnh thành lập một sở chỉ huy tại căn cứ Hải quân Đà Nẵng của ngụy mới vừa được giải phóng để tiện việc chỉ huy. Đoàn 125 cử ba tàu là 673, 674 và 675 làm nhiệm vụ này và lập tức hành quân từ Hải Phòng vào Đà Nẵng.
Ngày 9-4-1975, Cục Quân báo phát hiện địch có biểu hiện rút quân khỏi các đảo trên Biển Đông, Quân ủy Trung ương điện “tối khẩn” cho các đồng chí Võ Chí Công, Chu Huy Mân và Hoàng Hữu Thái - Phó Tư lệnh Quân chủng Hải quân đang ở Đà Nẵng: “Có tin quân ngụy chuẩn bị rút khỏi đảo Nam Sa. Các anh cho kiểm tra lại ngay và chỉ thị cho lực lượng ta hành động kịp thời theo phương án đã định. Nếu để chậm, có thể quân nước ngoài chiếm trước, vì hiện nay một số nước ngoài đang có ý đồ xâm chiếm”.
Lúc này, giải phóng các đảo trên quần đảo Trường Sa là nhiệm vụ quan trọng nhưng rất khó khăn và phức tạp. Tuy vậy, trước yêu cầu gấp rút, khẩn trương của Quân ủy Trung ương, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 phối hợp với Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân nhanh chóng tổ chức lực lượng giải phóng các đảo gồm: Đội 1 - Trung đoàn đặc công 126 do Trung tá Mai Năng chỉ huy; một bộ phận hỏa lực thuộc Tiểu đoàn đặc công nước 471 (Quân khu 5) do đội trưởng Nguyễn Ngọc Quế chỉ huy; Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 38, Sư đoàn 2 bộ binh (Quân khu 5), một bộ phận của Trung đoàn pháo binh 368 do Trung tá Nguyễn Thanh Thí và Thiếu tá, Chính ủy Trần Dược chỉ huy; các tàu vận tải 673, 674, 675 của Đoàn 125 (Hải quân) vừa từ Hải Phòng vào tiếp quản Đà Nẵng do các đồng chí Nguyễn Xuân Thơm, Nguyễn Văn Đức, Phạm Duy Tam làm thuyền trưởng. Các đơn vị này hợp thành Đoàn C75 với gần 300 sĩ quan và chiến sĩ do Trung tá Mai Năng chỉ huy.
Ngày 10/4, phân đội tàu gồm 3 chiếc: Tàu 673 do đồng chí Nguyễn Xuân Thơm làm thuyền trưởng; Tàu 674 là tàu chỉ huy do đồng chí Nguyễn Văn Đức làm thuyền trưởng; Tàu 675 do đồng chí Phạm Duy Tam làm thuyền trưởng. Đồng chí Mai Năng (Đoàn đặc công 126) làm Chỉ huy trưởng, đồng chí Dương Tấn Kịch làm Phó Chỉ huy lực lượng giải phóng đảo.
Đội 1 đặc công Hải quân và một lực lượng đặc công Quân khu 5 nhanh chóng xuống tàu làm nhiệm vụ. Biên đội tàu xuất phát vào 4 giờ sáng 11/4 hướng về đảo Song Tử Tây.
Song Tử Tây là một đảo nằm trong quần đảo Trường Sa cách Đà Nẵng 470 hải lý, là một chấm nhỏ trên tấm bản đồ biển Đông. Nhờ trước đây vận chuyển vũ khí cho chiến trường miền Nam, các con tàu Không số thường qua lại vùng này nhiều lần nên đã giúp họ nhận biết đảo không mấy khó khăn.
Đúng 4 giờ ngày 11-4-1975, các tàu vận tải 673, 674, 675 chở Đoàn C75 bí mật rời quân cảng Đà Nẵng ra đánh chiếm các đảo ở quần đảo Trường Sa với phương châm tác chiến “bí mật, bất ngờ tấn công”. Trong quá trình di chuyển, các tàu của ta gặp máy bay địch trinh sát. Tuy nhiên, do cả ba tàu 673, 674, 675 đã cải trang thành tàu đánh cá nước ngoài nên không bị phát hiện và tấn công.
Khi máy bay trinh sát của quân đội Việt Nam Cộng hòa bay đi, Trung tá Mai Năng ra lệnh cho cả ba tàu nhắm hướng đảo Song Tử Tây thẳng tiến. Sau gần 3 ngày hành quân trên biển, Đoàn C75 cách đảo Song Tử Tây vài hải lý. Đồng chí Mai Năng lệnh cho các tàu thả neo, tiến hành trinh sát nắm tình hình. Ta nhận thấy, trong các đảo do quân đội Sài Gòn chiếm giữ, do có Sở chỉ huy nên đảo Nam Yết mạnh nhất với khoảng 50 binh sĩ. Đảo Song Tử Tây và đảo Trường Sa có khoảng 40 binh lính. Các đảo còn lại khoảng 20 lính. Vũ khí trang bị tương đối thô sơ gồm súng bộ binh, súng ĐKZ, súng cối, đại liên, trung liên…
Sau 3 ngày đêm hành quân liên tục, đến 3 giờ sáng 13/4/1975, biên đội tàu của ta áp sát mục tiêu. Sau khi phân tích, đánh giá lực lượng địch, Đoàn C75 thống nhất đánh chiếm đảo Song Tử Tây trước nhằm làm bàn đạp tấn công các đảo còn lại và đánh giá phản ứng của đối phương. Lúc này ngoài khơi Song Tử Tây 20 hải lý về hướng tây có tuần dương hạm HQ16, khu trục hạm HQ13, HQ14 và một tàu đổ bộ LST của địch đang lượn lờ quanh đảo. Chỉ huy Mai Năng bố trí tàu 674 và 675 án ngữ phía bắc cách đảo 15 hải lý đề phòng đối phương từ phía bắc xuống. Tàu 673 chở một đội đặc công nước Hải quân tiếp cận gần mép đảo, thả xuồng cao su chở 40 chiến sĩ đổ bộ lên bờ đánh chiếm đảo. Phát súng DKZ đầu tiên nổ cũng là hiệu lệnh tấn công, toàn đội xông lên chiếm đảo. 19 giờ ngày 13-4-1975, các tàu di chuyển theo các hướng khác nhau, tàu 673 tiếp cận từ phía Đông, tàu 674 và 675 án ngữ ở phía Bắc và phía Nam cách đảo 15 hải lý để đề phòng tàu của quân đội Việt Nam Cộng hòa ở phía Bắc xuống và hai tàu đang đóng ở đảo Nam Yết.
Vào hồi 4 giờ 30 phút ngày 14-4-1975, sau 2 quả đạn B41 được bắn lên đảo, mở đầu trận đánh, các mũi đồng loạt tiến công vào các mục tiêu, công sự của quân đội Việt Nam Cộng hòa ở trên đảo. Do bị tấn công bất ngờ, quân trên đảo chống trả yếu ớt. “Sau 30 phút chiến đấu, ta diệt 6 tên địch, số còn lại tháo chạy tán loạn. Thừa thắng, quân ta tiếp tục truy lùng và gọi hàng, bắt sống 33 tên còn lại trên đảo, thu toàn bộ vũ khí của chúng gồm 1 khẩu ĐKZ, 2 khẩu cối 61mm, 2 đại liên, 2 trung liên, 45 khẩu súng bộ binh và đạn dược”. 5 giờ 15 phút, đảo Song Tử Tây được hoàn toàn giải phóng, lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được kéo lên đỉnh cột, trước bia chủ quyền của đảo.
Bị đánh bất ngờ, bọn địch rất hoang mang, chống trả yếu ớt. 30 phút sau, ta hoàn toàn làm chủ đảo Song Tử Tây. Cờ Mặt trận giải phóng được kéo lên cột cờ của đảo. Trong trận này ta tiêu diệt 7 tên, bắt sống 33 tên, thu nhiều vũ khí. Ta đưa lực lượng đặc công Quân khu 5 lên phòng thủ đảo, các tàu được lệnh chở tù binh về đất liền.
Bị mất đảo Song Từ Tây, quân đội Việt Nam Cộng hòa điều hai tàu HQ16 và HQ 402 từ Vũng Tàu ra định phản kích chiếm lại đảo. Tuy nhiên, do chưa nắm rõ lực lượng ta, mặt khác, lúc này, trên đất liền, tuyến phòng thủ Phan Rang bị vỡ nên lực lượng đi ứng cứu này của quân đội Việt Nam Cộng hòa hết sức địch hoang mang, dao động, không dám tấn công mà quay về tăng cường phòng thủ đảo Nam Yết.
Sau khi chiếm đảo Song Tử Tây, Bộ Tư lệnh tiền phương ở Đà Nẵng chỉ thị lực lượng canh phòng chặt chẽ, nêu cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, bố trí lực lượng ở lại bảo vệ đảo. Các tàu chở hàng binh quân đội Việt Nam Cộng hòa và lực lượng còn lại về Đà Nẵng.
Trước những thắng lợi liên tiếp của ta trên bộ và trên biển, Bộ Tư lệnh tiền phương thống nhất phương án đánh chiếm các đảo còn lại với Bộ Tư lệnh Quân khu 5. Ta sử dụng tàu 673 do đồng chí Nguyễn Xuân Thơm làm thuyền trưởng chở ban chỉ huy chiến đấu và Phân đội 3; tàu 641 do đồng chí Trần Tú làm thuyền trưởng chở Phân đội 2 và Phân đội 4 thuộc Đội 1 Đoàn 126 do đồng chí Đỗ Viết Cường chỉ huy. Theo kế hoạch, tàu 673 chở quân ra giải phóng đảo Nam Yết, tàu 641 ra đảo Sơn Ca.
4 giờ sáng 21/4, ta dùng Tàu 673 do Nguyễn Xuân Thơm làm thuyền trưởng, Tàu 641 do Trần Tú làm thuyền trưởng tiếp tục chở bộ đội đi giải phóng các đảo còn lại.
Chiều ngày 24-4-1975, hai tàu chở lực lượng chiến đấu tập kết hai vị trí khác nhau. Đêm ngày 24-4-1975, khi tàu 673 vào gần đảo Nam Yết thì phát hiện có một tàu khu trục của quân đội Việt Nam Cộng hòa địch đang hoạt động ở đó. Thấy không bảo đảm yếu tố bí mật nếu tiến hành đổ bộ lên đánh chiếm đảo, đồng chí Mai Năng cho tàu 673 quay về đảo Song Tử Tây chờ thời cơ. Đêm 24/4, các tàu chia làm hai mũi: Tàu 673 chở quân đánh địch ở đảo Nam Yết, Tàu 641 chở quân đánh địch ở đảo Sơn Ca. Tàu 673 vào gần khu đảo Nam Yết thì gặp tàu khu trục địch hoạt động gần đó, yếu tố bí mật không còn nữa nên trở về neo ở đảo Song Tử Tây chờ thời cơ.
Trong khi đó, Tàu 641 đã ép sát cách đảo Sơn Ca 2 hải lý. Quân ta tiến hành đổ bộ nhưng vì nước chảy xiết nên đổ bộ không thành. Chờ đến 23 giờ 30, Tàu 641 tiến vào và cho quân đổ bộ nổ súng tấn công. Địch bất ngờ, chống cự yếu ớt đua nhau chạy vào công sự ẩn nấp.
2 giờ 30 phút ngày 25-4-1975, tàu 641 chở lực lượng đánh chiếm đổ bộ lên đảo Sơn Ca và nổ súng tấn công. Sau 30 phút chiến đấu, lực lượng đổ bộ Quân Giải phóng miền Nam hoàn toàn làm chủ đảo Sơn Ca. Toàn bộ quân trên đảo bị bắt, ta thu 2 máy vô tuyến điện, 4 máy điện thoại, 2 xuồng máy, 1 máy nổ, 40 phuy xăng và toàn bộ vũ khí, đạn dược của chúng.Bắt được tù binh khai thác và phát loa kêu gọi đầu hàng. 3 giờ sáng, ta làm chủ đảo Sơn Ca. Trước việc quân ta giải phóng đảo Sơn Ca, lực lượng địch trên quần đảo Trường Sa lực lượng của địch đóng trên các đảo còn lại hoang mang, dao động, mất tinh thần chiến đấu, đồng thời được lệnh rút ra tàu bảo vệ, chạy khỏi đảo. Tối 26/4, Sở chỉ huy tiền phương của quân chủng cho biết địch sắp bỏ chạy khỏi các đảo còn lại, lập tức lệnh cho Tàu 643 và Tàu 641 chở quân giải phóng đảo Nam Yết. Các tàu địch thấy tàu ta đến vội vã cho quân xuống tàu bỏ chạy. Lực lượng ta khẩn trương lên đảo vào lúc 10 giờ 30 ngày 27/4/1975. Chớp thời cơ này, Bộ Tư lệnh tiền phương chỉ thị cho đồng chí Mai Năng đang trên tàu 673 ở Song Tử Tây lập tức giải phóng các đảo còn lại. 1 giờ 30 phút ngày 27-4-1975, tàu 673 chở lực lượng đánh chiếm rời đảo Sơn Ca hướng về đảo Nam Yết. 10 giờ 30 phút cùng ngày, tàu 673 đến đảo Nam Yết. Một bộ phận của Phân đội 3 nhanh chóng đổ bộ chiếm giữ đảo. 11 giờ 30 phút ngày 27-4-1975, ta hoàn toàn làm chủ đảo Nam Yết. Sau khi chiếm đảo Nam Yết, tàu 673 tiếp tục đưa một bộ phận lực lượng đi chiếm đảo Sinh Tồn. 10 giờ 30 phút ngày 28-4-1975, do địch đã bỏ chạy nên ta làm chủ đảo Sinh Tồn. Ngày 29-4-1975, ta tiếp tục giải phóng đảo Trường Sa. Như vậy, sau gần 20 ngày chuẩn bị và chiến đấu, phát huy khí thế tiến công thần tốc, táo bạo, lực lượng được cử đi giải phóng đảo đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, giải phóng toàn bộ các đảo do Quân đội Việt Nam Cộng hòa chiếm giữ ở quần đảo Trường Sa - phần hải đảo thiêng liêng thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Sau khi giải phóng quần đảo Trường Sa, lực lượng tàu Không số còn chở quân giải phóng đảo Phú Quý (cù lao Thu); giải phóng Côn Đảo và chở tù chính trị về đất liền, tiếp tục tham gia giải phóng các đảo vùng biển Tây Nam của Tổ quốc.
Ngay trong ngày 29-4-1975, đúng như dự báo của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, một số tàu nước ngoài tiến vào gần đảo để thăm dò nhưng khi thấy cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tung bay trên các đảo thì lùi ra xa. Đúng một ngày sau khi các đảo trên quần đảo Trường Sa được giải phóng, vào lúc 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử giành thắng lợi. Đất nước liền một dải từ Bắc đến Nam.
Việc giải phóng các đảo trên quần đảo Trường Sa từ quân đội Việt Nam Cộng hòa trong thời điểm cuối tháng 4-1975 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đây là vùng biển, đảo thuộc chủ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam, vì vậy, phải giải phóng để thực hiện thống nhất đất nước. Bên cạnh đó, các đảo trên quần đảo Trường Sa được giải phóng với sự hiện diện của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam đã kịp thời ngăn chặn âm mưu chiếm đảo của một số quốc gia trong khu vực. Đồng thời, việc người Việt Nam liên tục có mặt trên những đảo này là chứng cứ pháp lý rất rõ ràng để chứng minh với cộng đồng quốc tế, quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Việc giữ vững chủ quyền quần đảo Trường Sa có vai trò rất quan trọng đối với công cuộc xây dựng đất nước, phát triển kinh tế biển và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thắng lợi trên, trước hết, do Đảng đã đề ra chủ trương đúng đắn và kịp thời, thể hiện tầm nhìn chiến lược. Có thể thấy, giải phóng các đảo trên quần đảo Trường Sa ngay từ đầu không nằm trong kế hoạch chiến lược của Đảng nhưng trước kiến nghị đúng đắn và phù hợp với tình hình của Quân ủy Trung ương, Bộ Chính trị đã tiếp thu và kịp thời đưa vào chủ trương. Từ đó là cơ sở cho Quân ủy Trung ương thực hiện “sự kiện đặc biệt đã diễn ra ngoài kế hoạch chiến lược ban đầu” này.
Đồng thời, không thể không nói đến vai trò của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, vị Tổng Tư lệnh đã có những nhận định anh minh, sáng suốt và đưa ra chỉ đạo chính xác, phù hợp trong những thời điểm lịch sử quan trọng. Đại tướng là người đã thay mặt Quân ủy Trung ương trực tiếp kiến nghị Bộ Chính trị quan điểm giải phóng các đảo trên quần đảo Trường Sa. Khi lực lượng đánh chiếm đã hành quân ra đảo, Đại tướng luôn theo dõi sát sao và chỉ đạo cụ thể, trên mặt trận Biển Đông hành động cũng phải: “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”. Ngày 13-4-1975, khi lực lượng ta chuẩn bị đánh chiếm đảo đầu tiên - đảo Song Tử Tây, bằng linh cảm của mình, vị Tổng Tư lệnh đã điện cho đồng chí Chu Huy Mân dặn dò quyết tâm chiến lược: “Thời cơ cụ thể đánh chiếm là:
Nếu địch đã rút toàn bộ hoặc rút đại bộ phận thì đánh chiếm ngay. Nếu quân nước ngoài đánh chiếm trước thì đánh chiếm lại.
Nếu địch mới có triệu chứng rút hoặc bắt đầu rút thì theo dõi, kịp thời đánh chiếm khi địch rút đại bộ phận.
Khi tình hình chung của địch nguy khốn, nhất là tình hình địch ở trọng điểm, thì đánh chiếm ngay.
Hai thời cơ cụ thể trên do anh theo dõi và quyết định. Thời cơ cụ thể thứ ba tôi sẽ kịp thời báo anh khi xuất hiện”.
Ngoài ra, lực lượng tham gia giải phóng các đảo đã vượt qua những khó khăn, gian khổ. Thứ nhất, quần đảo Trường Sa quá rộng lớn, các đảo xa nhau, xa đất liền, hậu phương. Thứ hai, lực lượng đặc công trước đây chỉ quen đánh tàu, chưa có kinh nghiệm đánh chiếm căn cứ, cứ điểm, nhất là đảo ở biển, chưa từng đến các đảo, phương tiện hỗ trợ thiếu. Thứ ba, lực lượng hải quân của Quân đội Việt Nam Cộng hòa còn khá mạnh, khả năng tái chiếm cao. Trong quá trình chiến đấu, lực lượng đặc công hành động mưu trí, sáng tạo, quả cảm, quyết đoán. Mặc dù phương tiện, trang bị nhỏ và ít, lại chưa quen thuộc địa hình các đảo nhưng các chiến sĩ đã triển khai theo cách đánh của riêng mình và đạt hiệu quả cao: “trinh sát đến đâu đánh đến đó”, bí mật tiếp cận đảo, nhanh chóng đổ bộ vào thời điểm hình thái thủy văn thuận lợi, đánh chiếm mục tiêu một cách bất ngờ, tranh thủ thời cơ có lợi nhất để giải phóng đảo, kiên quyết không để lực lượng nào khác đến chiếm đảo trước ta.
Trong thời điểm lịch sử quan trọng, tháng 4-1975, Đảng đã kịp thời đề ra chủ trương đúng đắn và sáng suốt, các lực lượng tham gia giải phóng đảo đã vượt qua mọi khó khăn, thử thách, quyết tâm giải phóng các đảo trên quần đảo Trường Sa. Tất cả đã thể hiện khát vọng thống nhất chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc, góp phần tạo nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975 một cách trọn vẹn. Hiện nay, tình hình Biển Đông diễn biến ngày càng phức tạp, khó lường, đe dọa nghiêm trọng đến sự phát triển của đất nước và hòa bình, ổn định của khu vực. Điều đó, đòi hỏi Đảng phải tiếp tục đề ra những chủ trương đúng đắn, phù hợp với tình hình. Các lực lượng, trực tiếp là lực lượng vũ trang, phải xử lý kịp thời các tình huống xảy ra trên biển, kiên quyết, kiên trì đấu tranh với các hành động của nước ngoài vi phạm vùng biển, đồng thời, không để nước ngoài tạo cớ xảy ra xung đột, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền lãnh thổ quốc gia, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.
2. Trách nhiệm của thanh niên Quân đội và thế hệ trẻ trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển đảo Tổ quốc hiện nayBiển, đảo Việt Nam là một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc. Qua hàng ngàn năm lịch sử, biển đảo trong tâm thức của người Việt là đất nước, là cuộc sống mà biết bao thế hệ cha ông ta đã đổ xương máu để xây dựng, gìn giữ, phát triển và bảo vệ chủ quyền đất nước cho hiện tại và tương lai.
Hiện nay, Biển Đông đang có những diễn biến hết sức phức tạp ảnh hưởng trực tiếp đến chủ quyền biển, đảo Việt Nam. Chúng ta cần phải phát huy sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, trong đó thế hệ trẻ là lực lượng nòng cốt, xung kích trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.
Việt Nam là quốc gia ven biển có địa vị chính trị và địa vị kinh tế rất quan trọng,với bờ biển dài trên 3.260 km trải dài từ Bắc xuống Nam, đứng thứ 27 trong số 157 quốc gia ven biển, các quốc đảo và các lãnh thổ trên thế giới. Chỉ số chiều dài bờ biển trên diện tích đất liền của nước ta là xấp xỉ 0,01 (nghĩa là cứ 100 km2 đất liền có 1 km bờ biển). Trong 63 tỉnh, thành phố của cả nước thì 28 tỉnh, thành phố có biển và gần một nửa dân số sinh sống tại các tỉnh, thành ven biển.
Theo Công ước của Liên hiệp quốc về Luật Biển năm 1982, nước ta có diện tích biển khoảng trên 1 triệu km2, gấp 3 lần diện tích đất liền, chiếm gần 30% diện tích Biển Đông (cả Biển Đông gần 3,5 triệu km2). Vùng biển nước ta có khoảng 3.000 hòn đảo lớn, nhỏ và 2 quần đảo xa bờ là Hoàng Sa và Trường Sa (điều này đã được công bố, minh chứng trong lịch sử, các tư liệu khoa học và pháp lý về chủ quyền biển, đảo Việt Nam). Một số đảo ven bờ còn có vị trí quan trọng được sử dụng làm các điểm mốc quốc gia trên biển để thiết lập đường cơ sở ven bờ lục địa Việt Nam, từ đó,xác định vùng nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, làm cơ sở pháp lý để bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển.
Có thể nói, Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC)- còn gọi là Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Nam Trung Hoa là một văn kiện được các nước ASEAN và Trung Quốc ký kết ngày 04/11/2002 tại Phnom Penh, Campuchia, nhân dịp Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 8. Đây là văn kiện chính trị đầu tiên mà ASEAN và Trung Quốc đạt được có liên quan đến vấn đề Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông) và được coi là bước đột phá trong quan hệ ASEAN - Trung Quốc về vấn đề Biển Đông. Việc ký văn kiện này là kết quả nỗ lực của các nước ASEAN, đặc biệt là 4 nước liên quan trực tiếp tranh chấp ở quần đảo Trường Sa (Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei) trong việc duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông và Tuyên bố cấp cao kỷ niệm 10 năm DOC.
Ý nghĩa quan trọng nhất của Tuyên bố chung nằm ở 3 điểm: các nước ASEAN và Trung Quốc tái cam kết ở cấp cao nhất với những nguyên tắc của DOC; nhất trí với nhau ở cấp cao nhất cùng hướng tới bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC); nâng cơ chế thực hiện lên cấp Bộ trưởng. Việc tái cam kết những nguyên tắc ở cấp cao nhất sẽ hỗ trợ nhiều hơn cho việc bảo đảm hòa bình, ổn định an ninh, an toàn hàng hải và giải quyết hòa bình các tranh chấp trên cơ sở luật pháp quốc tế và Công ước Luật Biển. Tuyên bố chung này càng có ý nghĩa khi đặt trong bối cảnh các nước đã có những bước tiến nhất định trong việc xây dựng lòng tin và thực hiện DOC trong 10 năm qua nhưng vẫn còn những diễn biến phức tạp.
Để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là: bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Quan điểm của Đảng là tập trung trước hết về phát triển kinh tế độc lập tự chủ, kinh tế biển, bảo vệ chủ quyền biển, đảo, giữ vững chủ quyền biển, đảo, biên giới, vùng trời của Việt Nam trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế; coi đây là một trong những động lực cơ bản cho sự phát triển bền vững của đất nước. Điều này được khẳng định trong các văn kiện Đại hội của Đảng lần thứ VII, VIII, IX, XI và XII, đặc biệt trong các nghị quyết, chỉ thị như: Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 06/5/1993 của Bộ Chính trị khóa VII về một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển trong những năm trước mắt; Chỉ thị số 20-CT/TW ngày 22/9/1997 của Bộ Chính trị khóa VIII về đẩy mạnh phát triển kinh tế biển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đặc biệt, tại Hội nghị Trung ương 4 (khóa X) về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, quan điểm chỉ đạo của Đảng là: “Đến năm 2020, phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển”.
Tiếp tục khẳng định quan điểm chỉ đạo của Đảng ta, đó là: “Chủ động, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bằng các biện pháp phù hợp, bảo vệ được chủ quyền biển, đảo, vùng trời và giữ được hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”. Xác định rõ hơn quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước, của quân và dân trong công cuộc bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên biển và lợi ích quốc gia trên biển: “nhận thức của toàn hệ thống chính trị, nhân dân và đồng bào ta ở nước ngoài về vị trí, vai trò của biển, đảo đối với phát triển kinh tế, bảo vệ chủ quyền quốc gia được nâng lên rõ rệt. Chủ quyền, an ninh quốc gia trên biển được giữ vững” (đây là nội dung trong Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045).
Việc đổi mới tư duy, phát triển nhận thức của Đảng trên các vấn đề cơ bản khác của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong đó để hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, điều tiên quyết đặt ra là phải không ngừng củng cố, tăng cường sức mạnh quốc gia, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân trên biển đã được chỉ rõ tại Nghị quyết Đại hội XII của Đảng: “Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc”. Đó là trách nhiệm chung của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, trong đó có thanh niên được xác định là lực lượng nòng cốt, xung kích đi đầu trong bảo vệ chủ quyền biển đảo, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam.
Cụ thể hóa các văn kiện, nghị quyết của Đảng nhằm xây dựng thế trận lòng dân, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc, Luật Biển Việt Nam năm 2012 quy định về chính sách quản lý và bảo vệ biển, trong đó nhấn mạnh việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc và thực hiện các biện pháp cần thiết bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển, đảo và quần đảo, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, phát triển kinh tế biển; xây dựng và thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch quản lý, sử dụng, khai thác, bảo vệ các vùng biển, đảo và quần đảo một cách bền vững phục vụ mục tiêu xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và thực hiện các chính sách ưu tiên đối với nhân dân sinh sống trên các đảo và quần đảo; chế độ ưu đãi đối với các lực lượng tham gia quản lý và bảo vệ các vùng biển, đảo và quần đảo (tại Điều 5 của Luật Biển năm 1982). Nhấn mạnh rõ vai trò của thế hệ trẻ Việt Nam trong sự nghiệp bảo vệ biển, đảo và Tổ quốc.
Nhìn lại lịch sử địa lý của Việt Nam liên quan đến chủ quyền biển đảo, có thể khẳng định: hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam, điều này đã được xác định rõ trong công trình nghiên cứu về vấn đề biển đảo cũng như tìm hiểu 24 bộ sách dư địa chí Trung Quốc từ thời Hán đến thời Thanh của các nhà khoa học, nhà lịch sử (quốc tế và Việt Nam) đã cho thấy, trong các tư liệu này đều không ghi hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc sở hữu của Trung Quốc. Trong khi đó, các thư tịnh, bản đồ cổ của các nhà tư bản, các cố đạo phương Tây đều ghi nhận hai quần đảo này là của Việt Nam, đặc biệt ghi chép nhiều lần Chúa Nguyễn cứu trợ những người mắc nạn trên 2 đảo.
Trong các thư tịch cổ lưu giữ tại cố đô Huế cũng ghi chép về sự thành lập đội Hoàng Sa, các chỉ dụ chỉ đạo việc bố phòng canh giữ… của các đời vua nhà Nguyễn. Bản đồ chủ quyền của Pháp khi xâm lược Việt Nam cũng quy hoạch rõ có việc sở hữu hai quần đảo thuộc Việt Nam năm 1954, khi Hiệp định Giơ-ne-vơ ký kết (Trung Quốc là một thành viên Hội đồng bảo an Liên hiệp quốc tham dự cũng thừa nhận phần Nam vĩ tuyến 17, bao gồm lục địa biển quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là do chính quyền Việt Nam cộng hòa quản lý).
Với những tư liệu lịch sử ghi nhận tính sở hữu hai quần đảo của Việt Nam vừa mang tính pháp lý phù hợp với Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển năm 1982 và trên cơ sở pháp luật của Việt Nam, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, khẳng định rằng: Việt Nam có chủ quyền và quyền chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo Việt Nam, bảo đảm quốc phòng - an ninh trên biển là nội dung chiến lược, mang tính cấp bách, then chốt hiện nay. Trách nhiệm thiêng liêng này thuộc về mỗi công dân Việt Nam đối với lịch sử dân tộc, trong đó trách nhiệm, nghĩa vụ và vai trò xung kích thuộc về thế hệ trẻ, đây là nhân tố quan trọng bảo đảm cho sự nghiệp xây dựng đất nước và phát triển bền vững hiện nay và trong tương lai. Để thế hệ trẻ làm tốt việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo cần phải tập trung vào một số nội dung sau:
Thứ nhất, đẩy mạnh công tác tuyên truyền về quan điểm, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về chủ quyền biển, đảo, quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển, đảo và quần đảo.
Công tác tuyên truyền biển, đảo, bồi dưỡng nâng cao nhận thức cho thanh niên cần bám sát thực tiễn tình hình, không ngừng đổi mới nội dung, đa dạng hóa hình thức, phương pháp tuyên truyền phù hợp với trình độ, đặc điểm của từng địa bàn nhằm đáp ứng thực tiễn nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo, đồng thời tận dụng có hiệu quả các phương tiện kỹ thuật và chú trọng mở rộng phạm vi tuyên truyền.
Công tác tuyên truyền về chủ quyền quốc gia trên biển cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành và địa phương trong việc phát huy các tổ chức, đoàn thể, nhất là Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp trong công tác tuyên truyền và gắn kết chặt chẽ với việc học tập và làm theo tấm gương, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh, giáo dục truyền thống, các bài học kinh nghiệm và gương các anh hùng trong kháng chiến chống xâm lược trong thanh niên.
Thông qua các cuộc vận động và chương trình hành động của thanh niên với cách làm thiết thực, như: “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác”, “Tuổi trẻ giữ nước”, “Năm xung kích phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ Tổ quốc”, “Doanh nhân trẻ khởi nghiệp”, “Nghĩa tình biên giới, hải đảo”, “Vì Trường Sa thân yêu”, “Góp đá xây Trường Sa”, “Đồng hành cùng ngư dân trẻ ra khơi”, “Tuổi trẻ hướng về biển, đảo của Tổ quốc”… Phối hợp giữa các cấp, ngành, tổ chức đoàn thể, gia đình, nhà trường, xã hội (nhất là Đoàn Thanh niên) và các hoạt động văn hoá, các phương tiện thông tin đại chúng tạo sức mạnh tổng hợp, hướng thanh niên chung sức bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.
Đối với các cấp Đoàn, cần chú trọng tổ chức các hoạt động thi tìm hiểu, tọa đàm về chủ quyền biển, đảo trong thanh niên bảo đảm thiết thực, chất lượng tốt; tăng cường tổ chức cho thanh niên đi thăm và tiến hành các hoạt động nghiên cứu thực tế trên các vùng biển, đảo của Tổ quốc.
Đồng thời, cần tổ chức cho thanh niên tham gia tìm hiểu về pháp luật Việt Nam, pháp luật quốc tế để các thế hệ thanh niên hiểu và nắm vững các vùng, khu vực thuộc chủ quyền có lịch sử lâu đời của Việt Nam cũng như chủ quyền và quyền chủ quyền đối với biển, đảo Việt Nam được xác lập trên cơ sở các điều khoản quy định trong Công ước quốc tế về Luật Biển năm 1982; khẳng định, củng cố niềm tin cho nhân dân cả nước và cộng đồng quốc tế nói chung cũng như đối với thanh niên về chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Thứ hai, cần có sự quan tâm và chính sách đãi ngộ cụ thể đối với thanh niên khi tham gia bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.
Cùng với việc thực hiện tốt các chính sách xã hội đối với các huyện đảo xa bờ và các địa bàn trọng điểm, chiến lược; coi trọng giải quyết tốt mối quan hệ và sự phối hợp hoạt động giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị ở mỗi huyện đảo và giữa các huyện đảo với nhau, tạo ra thế trận liên hoàn trên biển để có thể nhanh chóng tập hợp và sử dụng hiệu quả sức mạnh của các lực lượng tại chỗ phục vụ cho quốc phòng - an ninh trên biển, thì rất cần thiết để cho thanh niên nắm rõ được tính chất phức tạp của nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo, vừa nhận thấy nhân dân ta, đất nước ta có đủ ý chí, quyết tâm và sức mạnh tổng hợp để bảo vệ vững chắc biển, đảo của mình, qua đó, củng cố thêm niềm tin, thái độ, động cơ và ý chí vững vàng cho thanh niên về bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc một cách bền vững, để “không một phút nào được quên lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập”.
Động viên thế hệ trẻ nâng cao quyết tâm và hành động thiết thực để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong đó đang nổi lên vấn đề bảo vệ vững chắc toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền quốc gia trên các vùng biển đảo. Nhưng muốn có được quyết tâm và hành động để bảo vệ, trước hết phải có đủ tri thức hiểu biết và lòng tự hào về những điều mình sẽ dám bảo vệ, để thế hệ trẻ Việt Nam có ý thức về chủ quyền quốc gia nói chung, chủ quyền biển đảo nói riêng. Đó là những cơ sở tri thức tiền đề quan trọng giáo dục lòng tự hào dân tộc, bồi đắp tinh thần yêu nước, nâng cao ý thức về chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, đồng thời chống lại âm mưu xuyên tạc lịch sử, âm mưu thôn tính từng bước, dưới nhiều hình thức của các thế lực xâm lược.
Một trong những nền tảng quan trọng trong việc củng cố niềm tin, thái độ, động cơ và ý chí cho thế hệ trẻ đối với vận mệnh của đất nước, đó là cần nắm vững tư tưởng, phương châm chỉ đạo giải quyết các vấn đề về biển, đảo của Đảng và Nhà nước ta, để thanh niên thực sự là một lực lượng to lớn và vững chắc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế các vùng đảo, quần đảo phù hợp với vị trí, tiềm năng và lợi thế của biển đảo Việt Nam.
Thứ ba, chú trọng xây dựng quyết tâm cao, định hướng hành động thiết thực trong thanh niên đối với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.
Để xây dựng quyết tâm cho thanh niên, cần làm cho thanh niên thấy được sự khó khăn, gian khổ đối mặt với nguy hiểm, sự phức tạp của các hoạt động trên biển, đảo (đặc biệt là ở một số đảo có vị trí quan trọng về quốc phòng – an ninh như: quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa…), đòi hỏi thanh niên phải dũng cảm, mưu trí, chủ động, sáng tạo, tự lực tự cường, sẵn sàng hy sinh xương máu, kiên quyết đứng lên bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Đặc biệt là đối với thế hệ trẻ là lực lượng kiểm ngư; hay thanh niên ở các địa phương ven biển, huyện đảo tích cực tham gia vào lực lượng dân quân tự vệ để vừa tham gia sản xuất, khai thác hải sản, vừa làm nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự trên biển.
Bên cạnh việc bảo vệ chủ quyền, thanh niên cần phải tiếp tục gìn giữ và phát triển những tiềm năng của biển đảo Việt Nam, để Việt Nam có thể làm giàu từ biển, mạnh về biển, củng cố vị trí của Việt Nam giữa các quốc gia trên thế giới để sớm đưa đất nước ngày càng phát triển mạnh mẽ, sánh vai với cường quốc năm châu như Bác Hồ hằng mong muốn.
Theo đó, để làm tròn trách nhiệm của mình, mỗi thanh niên cần phải:
Một là, Tích cực học tập, nghiên cứu, quán triệt và thực hiện tốt quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo; nắm vững những cơ sở pháp lý, nhất là các văn bản pháp luật về biển, đảo trong phạm vi quốc gia cũng như luật pháp quốc tế; nắm vững đường lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về chủ trương giải quyết các bất đồng, tranh chấp chủ quyền trên biển bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Hai là, Trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với Đảng và nhân dân; có bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng, ý chí quyết tâm cao; có ý thức sâu sắc về vai trò, trách nhiệm, nghĩa vụ của mình trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo; chấp hành nghiêm kỷ luật, sẵn sàng chấp nhận hy sinh để bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc.
Ba là, Quán triệt và nắm chắc phương châm, tư tưởng chỉ đạo khi xử lý tình huống theo tinh thần: tránh xung đột về quân sự, tránh bị cô lập về kinh tế, tránh bị cô lập về ngoại giao và tránh bị lệ thuộc về chính trị; không tham gia bất cứ liên minh quân sự nào, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự tại Việt Nam và không sử dụng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực; đồng thời, phải kiên quyết đấu tranh, kiên trì, khôn khéo, không khiêu khích, không mắc mưu khiêu khích, kiềm chế, không nổ súng trước, không để nước ngoài lấn chiếm biển, đảo và không để xảy ra xung đột, đụng độ.
Bốn là, Nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, nắm chắc âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, nhận rõ đối tượng, đối tác trong giải quyết vấn đề Biển Đông. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, làm thất bại mọi hành động xâm phạm, lấn chiếm chủ quyền biển, đảo, các hành vi phá hoại, hoặc khai thác trái phép làm xâm hại đến chủ quyền biển, đảo, lợi ích quốc gia - dân tộc và môi trường biển của Việt Nam.
Năm là, Thường xuyên học tập, nâng cao trình độ mọi mặt, nhất là trình độ tác chiến, trình độ kỹ chiến thuật, làm chủ các loại vũ khí trang bị; khắc phục mọi khó khăn gian khổ, bám trụ kiên cường, quyết tâm hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo được giao.
Trong dòng chảy không ngừng của lịch sử, mỗi thời đại đều có những đặc điểm và thách thức riêng, nhưng tựu trung lại, vẫn luôn có một điểm chung bất biến: sự phát triển của đất nước phụ thuộc vào chính những con người đang sống và cống hiến cho nó. Ngày nay, Việt Nam đang bước vào một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên của hội nhập quốc tế, của khoa học công nghệ phát triển như vũ bão, của những cơ hội song hành cùng thách thức. Trong bối cảnh ấy, trách nhiệm của mỗi cá nhân không chỉ là một nghĩa vụ mà còn là sứ mệnh, là niềm tự hào khi được góp phần vào sự phát triển chung của dân tộc.
Lịch sử Việt Nam đã chứng minh rằng, đất nước này chỉ có thể tồn tại và phát triển khi mỗi người dân đều có tinh thần yêu nước nồng nàn, sẵn sàng bảo vệ quê hương trước mọi hiểm họa. Trong thời đại mới, bảo vệ Tổ quốc không chỉ là cầm súng ra trận, mà còn là bảo vệ nền độc lập, chủ quyền quốc gia bằng trí tuệ, bằng sự hiểu biết và bằng lòng tự hào dân tộc.
Mỗi cá nhân có thể đóng góp vào công cuộc bảo vệ đất nước bằng nhiều cách: từ việc thực hiện nghĩa vụ quân sự, giữ gìn an ninh trật tự đến việc đấu tranh với các luận điệu sai trái, bảo vệ chủ quyền trên không gian mạng. Mỗi người cần có ý thức về chủ quyền lãnh thổ, bảo vệ môi trường, giữ gìn tài nguyên thiên nhiên để thế hệ sau có thể tiếp tục phát triển trên một đất nước bền vững và thịnh vượng.
Kỷ nguyên mới mang đến cho Việt Nam những cơ hội phát triển mạnh mẽ, nhưng đồng thời cũng đặt ra không ít thách thức. Trách nhiệm xây dựng đất nước không chỉ thuộc về Đảng, Nhà nước hay một cá nhân cụ thể nào, mà là nhiệm vụ chung của toàn dân.
Mỗi người, dù là ai, ở độ tuổi nào, làm nghề gì, đều có thể góp phần vào sự phát triển chung của dân tộc. Chỉ khi mỗi cá nhân đều ý thức được trách nhiệm của mình, cùng nhau nỗ lực, chung tay dựng xây, thì khát vọng về một Việt Nam giàu mạnh, văn minh, văn hiến, anh hùng mới trở thành hiện thực.
Câu 10: Đồng chí (anh, chị) hãy trình bày cảm nhận về Chiến thắng lịch sử ngày 30 tháng 4 năm 1975 - Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và trách nhiệm của cá nhân trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, quyết tâm “xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến, anh hùng” (không quá 5000 từ).
Sau Chiến thắng Điện Biên Phủ, theo nội dung Hiệp định Giơnevơ được ký kết năm 1954, vĩ tuyến 17 được coi là ranh giới tạm thời chia đôi đất nước ta. Ranh giới ấy lẽ ra đã được xóa bỏ, hai miền Nam-Bắc ruột thịt có thể đã được thống nhất chỉ sau hai năm bằng một cuộc Tổng tuyển cử phổ thông đầu phiếu (Bản tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Geneva ghi rõ, cuộc Tổng tuyển cử sẽ được tổ chức vào tháng 7-1956). Nhưng chính âm mưu của đế quốc Mỹ muốn thế chân thực dân Pháp ở miền Nam đã phá hỏng cơ hội thống nhất hai miền Việt Nam. Chính quyền Ngô Đình Diệm-tay sai của đế quốc Mỹ biết không thể có cơ hội chiến thắng một cách đàng hoàng, hợp pháp qua cuộc Tổng tuyển cử trên cả nước trước Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của Chủ tịch Hồ Chí Minh rất được lòng dân. Nên, dưới sự hậu thuẫn của Mỹ, Ngô Đình Diệm đã phớt lờ Tổng tuyển cử, giành quyền thống trị miền Nam bằng vũ lực, súng đạn, máy chém, sát hại dã man hàng vạn đồng bào, đảng viên Đảng Cộng sản và những người bị nghi ngờ ủng hộ Đảng Cộng sản, tạo ra những cuộc bắt bớ, giết hại tín đồ Phật giáo, gây mâu thuẫn dân tộc, tôn giáo. Với việc dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm, Mỹ đã thi hành ở Việt Nam chủ nghĩa thực dân kiểu mới. Khi nhận thấy Ngô Đình Diệm không còn phù hợp với chính sách của mình, Mỹ lập tức dàn xếp một cuộc đảo chính, tiêu diệt cả hai anh em Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu, dựng lên tại miền Nam Việt Nam một chính thể khác phục vụ trung thành hơn cho lợi ích của Mỹ tại Việt Nam.
Như thế cần khẳng định rằng, chính quyền Việt Nam cộng hòa hoàn toàn là tay sai của Mỹ, thực hiện mưu đồ của Mỹ là biến Việt Nam trở thành thuộc địa kiểu mới. Dưới sự chỉ đạo của Mỹ, cùng với quân Mỹ, quân đội ngụy quyền Sài Gòn đã thực hiện nhiều chiến dịch thảm sát đồng bào miền Nam. Kể cả khi Mỹ đưa quân trực tiếp tham chiến, hay sau khi quân Mỹ phải rút phần lớn lực lượng khỏi miền Nam Việt Nam theo Hiệp định Paris vào năm 1973 thì bản chất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng vẫn không thay đổi. Tại Việt Nam từ năm 1954 đến 1975, thực chất chỉ có một nhà nước chính danh của dân tộc Việt Nam tồn tại, đó là Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được khai sinh ngày 2-9-1945 từ sau cuộc Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập tuyên bố với toàn thể thế giới. Quốc hội của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được nhân dân cả nước tín nhiệm bầu nên sau cuộc Tổng tuyển cử vào ngày 6-1-1946 (một số tỉnh tại miền Nam bầu vào ngày 23-12-1945 do không nhận được lệnh hoãn). Còn chính quyền Việt Nam cộng hòa tại miền Nam do Mỹ dựng lên, không do nhân dân Việt Nam bầu nên, chà đạp lên quyền lợi của dân tộc Việt Nam, đi ngược lại nguyện vọng của nhân dân miền Nam Việt Nam và toàn thể nhân dân Việt Nam. Vì thế, đây không phải là một chính quyền hợp pháp, hợp đạo lý, hợp lòng dân. Thực tế là trong suốt thời gian chính quyền tay sai của Mỹ tồn tại thì nhân dân miền Nam luôn đứng dậy để đấu tranh nhằm lật đổ chính quyền phi nghĩa này. Để phủ nhận chính quyền tay sai của Mỹ, để lật đổ nó, quân dân miền Nam đã lập ra Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam để lãnh đạo nhân dân toàn miền.
Đến năm 1973, sau khi thua trên chiến trường, chịu sức ép của dư luận trong nước và quốc tế bởi đang thực hiện một cuộc chiến tranh phi nghĩa, đế quốc Mỹ buộc phải ký Hiệp định Paris, rút quân khỏi nước ta. Nhưng Mỹ vẫn để lại một đội ngũ cố vấn hùng hậu, vẫn viện trợ quân sự để tiếp tục biến chính quyền Sài Gòn thành con rối trong tay Mỹ.
Như thế, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước không phải là một cuộc nội chiến giữa hai miền Nam-Bắc của Việt Nam như luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Mà đây là cuộc kháng chiến của toàn thể dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam trước sự xâm lược của đế quốc Mỹ và đánh đổ bè lũ tay sai của Mỹ, kết thúc thắng lợi bằng Chiến thắng 30-4-1975.
Như vậy, bên nào đã thắng cuộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước? Dĩ nhiên, đó là dân tộc Việt Nam đã thắng trong cuộc đấu tranh chống xâm lược, nhân dân Việt Nam đã thắng trong thực hiện khát vọng thống nhất đất nước, giành độc lập, hòa bình cho Tổ quốc. Để giành được thắng lợi vĩ đại đó, cả dân tộc Việt Nam đã chiến đấu anh dũng, bền bỉ trong suốt 30 năm.
Những ý nghĩ cho rằng, Việt Nam "có thể thực hiện thống nhất đất nước bằng giải pháp hòa bình" là hết sức thiển cận, hồ đồ, thiếu hiểu biết về thực tế lịch sử. Đảng ta, Nhà nước ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh và các lãnh đạo kế nhiệm đã nhất quán, thể hiện từ rất sớm mong muốn giành độc lập, thống nhất nước nhà bằng biện pháp hòa bình, đã nỗ lực thực hiện nhiều giải pháp ngoại giao, tránh chiến tranh. Thế nhưng đáp lại thiện ý đó, thực dân Pháp, sau đó là đế quốc Mỹ và tay sai luôn khước từ, tìm cách phá hoại, vì muốn thống trị nước ta bằng sức mạnh quân sự, đã chà đạp lên mong ước hòa bình, độc lập, thống nhất Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam.
Trong hai năm 1945-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có 8 bức thư và điện gửi Tổng thống Hoa Kỳ Harry Truman. Nội dung của các bức thư, bức điện này thể hiện rõ mong muốn được độc lập, hòa bình của Việt Nam và thiện chí của Việt Nam muốn được “hợp tác đầy đủ” với Mỹ vì hòa bình, tiến bộ và phát triển. Nhưng đáp lại chỉ là sự im lặng!
Hội nghị Fontainebleau diễn ra suốt hơn hai tháng (từ ngày 6-7 đến 10-9-1946). Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn Việt Nam còn sang Pháp trước đó hàng tháng trời để tìm mọi cơ hội đàm phán với Chính phủ Pháp, thuyết phục chính giới Pháp nhằm giành độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam bằng hòa bình. Nhưng mọi nỗ lực và thiện chí của Chính phủ Việt Nam, của phái đoàn Việt Nam đều bị xem nhẹ vì nước Pháp vẫn mang tư tưởng thực dân, vẫn muốn chiếm đoạt nước ta. Giải pháp tổ chức một cuộc bầu cử phổ thông đầu phiếu ở Nam Bộ để thống nhất Việt Nam đã bị phía Pháp phớt lờ.
Trong Hiệp định Paris năm 1973 có điều khoản về bầu cử, hiệp thương để thống nhất Việt Nam. Tuy nhiên, phía Mỹ-ngụy lại tiếp tục trắng trợn phá hoại hiệp định, xua quân nống lấn ra vùng tự do, đàn áp nhân dân ta chỉ hai giờ sau khi lệnh ngừng bắn có hiệu lực.
Có thể thấy, Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam rất yêu chuộng hòa bình, muốn giành độc lập, thống nhất đất nước bằng biện pháp hòa bình, tránh đổ máu, muốn tổ chức hiệp thương, Tổng tuyển cử để bầu ra chính phủ thống nhất hai miền, nhưng chính đế quốc Mỹ và tay sai đã hai lần phá hoại hiệp thương, Tổng tuyển cử, phá hoại cả hai hiệp định hòa bình là Hiệp định Giơnevơ và Hiệp định Paris. Do đó, hòa bình, độc lập, thống nhất, hạnh phúc như ngày hôm nay là thành quả vĩ đại của cả dân tộc ta. Bất cứ ai xúc phạm thành quả ấy, muốn chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc đều là những kẻ thiếu tử tế, mất nhân cách.
Hiện nay, thực hiện chủ trương lớn hết sức đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta, đồng bào Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài ra sức đoàn kết, đóng góp để xây dựng đất nước. Nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài cả về vật chất, trí tuệ, công sức đều hết sức quý giá, luôn được trân trọng. Trong số những người Việt Nam ở nước ngoài, đại bộ phận đều hướng về quê hương với tình yêu và sự nhiệt thành muốn đóng góp cho quê hương. Ngay cả những lãnh đạo của chính quyền Việt Nam cộng hòa năm xưa như ông Nguyễn Cao Kỳ cũng đã nhận ra sai lầm, thể hiện tấm lòng hướng về quê cha đất tổ, muốn đóng góp công sức để xây dựng đất nước Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, với sự đồng lòng, đoàn kết của người Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài, đất nước Việt Nam đã có những thành tựu đột phá về phát triển trong thời kỳ đổi mới, kinh tế đất nước, đời sống của nhân dân và vị thế quốc gia ngày càng đi lên.
Thế nhưng cũng có một bộ phận thiểu số, hầu hết đều là những người đã từng làm tay sai cho đế quốc Mỹ, thì chỉ luôn tìm cách hòng phá hoại đất nước Việt Nam. Họ coi ngày 30-4 là ngày “quốc hận”, là ngày giỗ của một chính thể phi pháp, phi nghĩa. Họ luôn đưa ra điều kiện hết sức phi lý là để “hòa hợp dân tộc” thì phải bỏ việc kỷ niệm ngày Chiến thắng 30-4-1975.
Những người ấy đã nhầm! Đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam luôn có khát vọng thống nhất, hòa hợp, đã chiến đấu kiên cường vì khát vọng ấy. Và thực tế, đất nước Việt Nam đã thống nhất, hòa hợp dân tộc từ ngay sau Chiến thắng 30-4-1975, Nam-Bắc một nhà ra sức xây dựng đất nước. Đối với những người Việt Nam ở nước ngoài, Tổ quốc luôn mở rộng vòng tay yêu thương, luôn coi họ là một phần ruột thịt của Tổ quốc.
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết” là bài học quý báu được Minh luôn đặc biệt quan tâm căn dặn mỗi người chúng ta. Hòa hợp dân tộc luôn là điều mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta nỗ lực thực hiện. Thế nhưng, hòa hợp dân tộc dứt khoát không phải là sự chối bỏ lịch sử! Hòa hợp dân tộc không phải là sự đổi trắng thay đen, không phải là sự trộn lẫn giữa chính nghĩa và phi nghĩa, dứt khoát không phải là sự đánh đồng giữa những người có công với những kẻ có tội với dân tộc Việt Nam! "Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh người chạy" lại là đạo lý của người Việt Nam. Vì thế những ai thực sự thành tâm hối cải, muốn quay về thì Tổ quốc Việt Nam, nhân dân Việt Nam luôn dành cho họ cơ hội. Còn những kẻ luôn rắp tâm phá hoại đất nước, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nếu không sớm tỉnh ngộ “quay đầu là bờ” thì nhân dân Việt Nam sẽ không bao giờ dung thứ.
Dịp kỷ niệm ngày Chiến thắng 30-4-1975, chúng ta lại càng thấm thía hơn ý nghĩa của việc dạy và học lịch sử đối với người Việt Nam. Đối với các quốc gia trên thế giới, việc giáo dục lịch sử luôn là yêu cầu bắt buộc đối với mọi công dân. Đối với một quốc gia, dân tộc có một quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước nhiều khúc quanh co, phức tạp như dân tộc Việt Nam thì dạy và học lịch sử có ý nghĩa sống còn, sinh tồn của dân tộc. Bởi vì những người Việt Nam thế hệ sau phải hiểu rõ, hiểu sâu về lịch sử dân tộc, hiểu về cha ông mình, hiểu về mảnh đất nơi mình sinh ra, từ đó sẽ hiểu về chính bản thân mình, rút ra cho mình những bài học quý báu. Hiểu về lịch sử, nắm vững kiến thức lịch sử là một yếu tố đánh giá nhân cách, đạo đức và trí tuệ của một con người Việt Nam. Có hiểu về lịch sử, mới hiểu về hiện tại và hình dung ra con đường đúng đắn tới tương lai; có trân trọng, biết ơn cha ông mới trân quý, nâng niu những gì mình đang có, để nỗ lực đóng góp công sức không chỉ cho thế hệ hiện tại mà cho các thế hệ tương lai trên đất nước Việt Nam.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 là một dấu mốc không thể nào quên trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Sự kiện này đánh dấu kết thúc cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, mở ra kỷ nguyên hòa bình và thống nhất đất nước. Đó là thành quả của lòng kiên cường, ý chí bất khuất và những hy sinh to lớn của quân và dân Việt Nam trong suốt những năm tháng chiến đấu gian khổ. Chiến thắng không chỉ là một thành tựu quân sự vĩ đại mà còn là biểu tượng của tinh thần đoàn kết, khát vọng độc lập và ý chí vươn lên của cả dân tộc. Đây không chỉ là ký ức về quá khứ mà còn là nguồn cảm hứng mạnh mẽ cho các thế hệ hôm nay trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Trước Chiến thắng ngày 30 tháng 4 năm 1975, Việt Nam đã trải qua những năm tháng vô cùng khó khăn. Sau khi Hiệp định Paris được ký kết năm 1973, quân đội Mỹ rút khỏi Việt Nam, nhưng cuộc chiến giữa hai miền Nam - Bắc vẫn tiếp diễn. Trong khi miền Bắc gấp rút chuẩn bị cho cuộc tổng tấn công giải phóng miền Nam, chính quyền Sài Gòn, với sự hỗ trợ của Mỹ, vẫn cố gắng duy trì quyền kiểm soát. Tuy nhiên, sự suy yếu nội bộ cùng với việc Mỹ cắt giảm viện trợ đã khiến chính quyền Sài Gòn ngày càng lâm vào khủng hoảng. Trước tình hình đó, quân và dân ta đã triển khai chiến dịch Hồ Chí Minh với mục tiêu quyết định giải phóng hoàn toàn miền Nam. Trong chiến dịch này, hàng trăm nghìn chiến sĩ đã tham gia vào cuộc tổng tiến công với ý chí sắt đá. Chiến dịch giải phóng Sài Gòn diễn ra thần tốc, với các mũi tiến công đồng loạt đánh vào các căn cứ trọng yếu của chính quyền Sài Gòn. Trước sức mạnh áp đảo của quân Giải phóng, chính quyền Sài Gòn nhanh chóng tan rã. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, chấm dứt sự tồn tại của chính quyền Sài Gòn và hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước. Chiến thắng ngày 30 tháng 4 không chỉ là thành công về mặt quân sự mà còn thể hiện tinh thần yêu nước, ý chí đoàn kết và sự hy sinh to lớn của toàn dân tộc. Đây không chỉ là một chiến công của riêng Việt Nam mà còn là nguồn động viên cho phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới. Thắng lợi này chứng minh rằng, khi có sự đoàn kết và quyết tâm, một dân tộc dù nhỏ bé vẫn có thể giành chiến thắng trước những thế lực xâm lược hùng mạnh. Đồng thời, đây cũng là minh chứng cho sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt cuộc kháng chiến.
Là một thanh niên của thế hệ hôm nay, sống trong một đất nước hòa bình, tự do, và đang trên đà phát triển mạnh mẽ, tôi không khỏi cảm thấy tự hào mỗi khi nghĩ đến chiến thắng vĩ đại của dân tộc vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Đó là ngày mà đất nước tôi, qua bao năm tháng đau thương, chia cắt, cuối cùng cũng được đoàn tụ, thống nhất dưới một cờ đỏ sao vàng, đánh dấu một trang sử mới trong cuộc đời của mỗi người Việt Nam. Nhưng trong sâu thẳm trái tim tôi, chiến thắng này không chỉ đơn thuần là một mốc son lịch sử, mà còn là một bài học sâu sắc về lòng yêu nước, sự hy sinh, và trách nhiệm của thế hệ trẻ hôm nay.
Mỗi khi nghĩ về chiến thắng 30 tháng 4, tôi cảm nhận được sức mạnh vô biên của những người lính, những người con của đất nước đã không quản ngại khó khăn, hy sinh tuổi trẻ, máu xương để giành lại tự do cho dân tộc. Trong cuộc chiến đó, không chỉ có những trận đánh ác liệt trên chiến trường, mà còn là những nỗi đau khôn xiết của những gia đình mất mát, những người mẹ mất con, những đứa trẻ mất cha. Chính những đau thương ấy, chính những hy sinh vô bờ ấy đã tạo nên một cột mốc vĩ đại trong lịch sử dân tộc.
Khi cảm nhận về hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng tung bay trên nóc Dinh Độc Lập năm ấy, tôi như thấy lòng mình rưng rung, cảm giác tự hào dân tộc dâng trào trong tôi, nhưng cũng có một nỗi niềm xót xa lẫn lộn. Bởi tôi biết rằng, không phải tự nhiên mà chúng ta có được ngày hôm nay. Những gì chúng ta đang có là kết quả của bao nhiêu đau thương, gian khổ mà thế hệ cha ông đã trải qua. Chúng ta được sống trong hòa bình, được hưởng nền độc lập, tự do, nhưng để có được điều đó, họ đã đánh đổi tất cả. Và tôi tự hỏi bản thân mình: “Mình đã làm gì để xứng đáng với những gì mà họ đã cống hiến?”. Những lúc như vậy, tôi nhận ra rằng chiến thắng 30 tháng 4 không chỉ mang lại cho chúng ta nền độc lập, mà còn là một lời nhắc nhở sâu sắc về trách nhiệm của mỗi cá nhân trong việc gìn giữ, bảo vệ những giá trị thiêng liêng ấy. Mỗi bước tiến của đất nước hôm nay đều gắn liền với những hy sinh của biết bao thế hệ. Để xứng đáng với những gì mà cha ông đã làm được, tôi không thể sống thụ động, không thể chỉ lo cho bản thân. Tôi phải sống có trách nhiệm hơn, phải nỗ lực học hỏi, rèn luyện, và cống hiến hết mình để đất nước tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn nữa.
Cảm nhận về chiến thắng này, đối với tôi, không chỉ là niềm tự hào, mà còn là một sự thức tỉnh về vai trò của thế hệ trẻ. Chúng ta không thể sống mãi trong quá khứ hào hùng, mà phải tiếp tục phấn đấu, nỗ lực không ngừng nghỉ. Tôi biết rằng, chiến thắng này là kết quả của một quá trình đấu tranh gian khổ kéo dài, không chỉ về mặt quân sự mà còn là sự kiên trì trong việc bảo vệ nền độc lập và chủ quyền dân tộc. Để đạt được chiến thắng ấy, mỗi người dân Việt Nam đều có một phần công sức không thể thiếu, từ những người chiến sĩ nơi chiến trường đến những người dân hậu phương, từ những bác sĩ, giáo viên đến những công nhân làm việc vất vả mỗi ngày. Chính họ đã tạo nên một sức mạnh không thể khuất phục.
Và chính vì vậy, mỗi khi nhìn thấy đất nước ngày càng phát triển, tôi lại càng cảm thấy trách nhiệm của mình lớn lao hơn. Những thành quả mà chúng ta có được hôm nay không phải là điều hiển nhiên, mà là sự kết tinh của những hy sinh và nỗ lực không ngừng. Đặc biệt, khi nhìn vào các thế hệ đi trước, tôi thấy được sự kiên cường, sức mạnh tinh thần của một dân tộc không bao giờ khuất phục. Hình ảnh của những người lính với trái tim đầy nhiệt huyết, những người phụ nữ, những bà mẹ Việt Nam anh hùng với nghị lực phi thường khiến tôi cảm thấy tự hào, nhưng cũng là một lời nhắc nhở về trách nhiệm của thế hệ trẻ.
Dù cuộc sống hiện tại đã có nhiều thay đổi, Việt Nam đang trên đà phát triển và hội nhập quốc tế, nhưng tôi không quên rằng những thành quả ấy không phải tự nhiên mà có. Nó được xây dựng trên nền tảng của những hy sinh, mất mát và những năm tháng gian khổ của cả một dân tộc. Và tôi hiểu rằng, với tư cách là một công dân của đất nước này, trách nhiệm của tôi không chỉ là sống cho bản thân mà còn phải đóng góp sức lực, trí tuệ để giúp đất nước ngày càng vươn lên, phát triển và hội nhập mạnh mẽ hơn với thế giới.
Chiến thắng 30 tháng 4 năm 1975 không chỉ là sự kết thúc của một cuộc chiến tranh mà còn là khởi đầu của một kỷ nguyên mới - một kỷ nguyên hòa bình, độc lập và tự do. Mỗi lần tôi nhìn thấy đất nước mình phát triển, tôi lại cảm thấy tự hào và đầy cảm hứng. Nhưng bên cạnh niềm tự hào ấy, tôi cũng luôn mang trong lòng một lời nhắc nhở về trách nhiệm của bản thân: Tôi phải sống sao cho xứng đáng với những gì mà cha ông đã dày công xây dựng. Những giá trị của tự do, độc lập, và khát vọng hòa bình mà họ đã bảo vệ, gìn giữ bằng cả máu xương, cần được bảo vệ, phát huy và truyền lại cho thế hệ mai sau.
Tôi tin rằng, dù cho gặp phải bao nhiêu khó khăn, thử thách, nếu chúng ta có ý chí kiên cường và tinh thần đoàn kết, dân tộc Việt Nam sẽ luôn vượt qua mọi thử thách, xây dựng một tương lai tươi sáng và rực rỡ. Và đó chính là lý do tôi sẽ không ngừng phấn đấu, học hỏi và cống hiến hết mình, để không chỉ có một cuộc sống tốt đẹp hơn cho chính mình mà còn đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước.
Bài học lịch sử mà chúng ta rút ra từ những chiến thắng vĩ đại, đặc biệt là từ Chiến thắng ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính là sự khẳng định mạnh mẽ rằng chỉ khi đất nước có độc lập, nhân dân mới có cơ hội làm chủ vận mệnh của mình. Chiến thắng này không chỉ là mốc son đánh dấu sự kết thúc của cuộc chiến tranh giải phóng, mà còn là dấu hiệu của sự khởi đầu một kỷ nguyên mới, một kỷ nguyên mà đất nước được làm chủ vận mệnh, được tự quyết định con đường phát triển của mình. Và trong thời đại hòa bình ngày nay, tinh thần yêu nước ấy cần phải được duy trì và phát huy mạnh mẽ, bởi vì độc lập không chỉ là kết quả của những trận chiến, mà còn là trách nhiệm của thế hệ hôm nay trong việc duy trì, bảo vệ và phát triển những thành quả quý báu mà cha ông để lại.
Ngày nay, chúng ta sống trong một thời đại không còn chiến tranh, nhưng lại đang đối diện với vô vàn thử thách mới. Sự cạnh tranh quốc tế, biến đổi khí hậu, những vấn đề xã hội và kinh tế phức tạp, đều đòi hỏi mỗi chúng ta, đặc biệt là thế hệ trẻ, phải có những nỗ lực và trách nhiệm mới để tiếp nối những gì mà cha ông đã dày công xây dựng. Yêu nước không chỉ là bảo vệ chủ quyền, biên cương lãnh thổ, mà còn là thể hiện lòng yêu nước qua những hành động thiết thực hàng ngày: học tập, lao động sáng tạo, rèn luyện đạo đức và cống hiến cho sự nghiệp xây dựng đất nước. Cách thể hiện yêu nước của chúng ta hôm nay chính là đóng góp vào sự phát triển chung của dân tộc, là xây dựng một xã hội tiến bộ, văn minh, và đầy trách nhiệm.
Thế hệ trẻ hôm nay phải ý thức rõ vai trò và trách nhiệm của mình trong việc tiếp nối và phát huy truyền thống yêu nước mà các thế hệ đi trước đã để lại. Điều này không chỉ đòi hỏi tinh thần cống hiến, mà còn đòi hỏi mỗi người phải có một tầm nhìn rõ ràng về tương lai, về mục tiêu xây dựng một đất nước Việt Nam giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng. Để thực hiện được điều đó, mỗi cá nhân, trong đó có tôi, cần phải hiểu rõ rằng đây không chỉ là một khẩu hiệu hay một ước mơ đẹp đẽ mà là một hành trình dài, đòi hỏi nỗ lực không ngừng nghỉ. Chúng ta không thể chỉ đứng nhìn và mong đợi một tương lai tốt đẹp đến từ những yếu tố bên ngoài, mà phải chủ động tạo ra nó bằng những hành động cụ thể từ chính bản thân mình.
Với tôi, mỗi bước đi trong cuộc sống hàng ngày đều có thể là một đóng góp cho sự nghiệp xây dựng đất nước. Từ việc học tập để nâng cao tri thức, đến việc rèn luyện đạo đức, làm việc chăm chỉ và cống hiến hết mình cho công việc, tất cả đều là những hành động thiết thực thể hiện tình yêu đối với đất nước. Chúng ta không thể bỏ qua những việc tưởng chừng nhỏ bé, nhưng lại có ý nghĩa vô cùng lớn lao trong việc góp phần làm giàu mạnh xã hội và phát triển quốc gia. Hơn bao giờ hết, trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, mỗi cá nhân phải tự ý thức và thực hiện những hành động cụ thể, thiết thực để góp phần xây dựng một Việt Nam phát triển bền vững, tự cường và có sức ảnh hưởng trên thế giới.
Tôi tin rằng, nếu mỗi chúng ta, đặc biệt là thế hệ trẻ, có thể sống với trách nhiệm lớn lao ấy, chúng ta sẽ không chỉ phát huy được giá trị truyền thống của dân tộc mà còn góp phần đưa Việt Nam vươn lên, vượt qua mọi thách thức, và hội nhập mạnh mẽ hơn vào cộng đồng quốc tế. Những giá trị như lòng yêu nước, sự đoàn kết, và tinh thần cống hiến sẽ giúp chúng ta xây dựng một xã hội phát triển công bằng, văn minh và giàu mạnh. Chính vì thế, tôi sẽ không ngừng phấn đấu để sống một cuộc đời có ích, không chỉ cho bản thân, mà cho cộng đồng và cho đất nước, để xứng đáng với những gì mà cha ông đã hy sinh và cống hiến.
Đầu tiên, với tôi, trách nhiệm lớn nhất chính là việc học hỏi không ngừng và nâng cao trí tuệ. Không còn là những ngày tháng mà học sinh chỉ cần ngồi trong lớp, thuộc bài rồi thi cử là xong. Trong kỷ nguyên số, nơi mọi thứ đều thay đổi nhanh chóng, tôi nhận thấy việc học phải luôn đi kèm với thực tiễn, với tư duy phản biện và sáng tạo. Để xây dựng một Việt Nam giàu mạnh và văn minh, tôi hiểu rằng mình phải không chỉ học những kiến thức chuyên môn mà còn phải biết cách áp dụng chúng vào thực tế, tạo ra giá trị mới. Học là để làm, học là để cống hiến. Tôi cần trau dồi những kiến thức về khoa học, công nghệ, và cả kỹ năng mềm để có thể đóng góp vào công cuộc phát triển đất nước. Không thể thiếu những kỹ năng như lãnh đạo, giao tiếp, quản lý thời gian và giải quyết vấn đề, vì chúng chính là chìa khóa giúp tôi thích ứng với xã hội hiện đại, luôn thay đổi và phát triển.
Tuy nhiên, việc học và làm không đủ nếu không có một nền tảng đạo đức vững chắc. Đối với tôi, trách nhiệm trong việc xây dựng một đất nước giàu mạnh và văn minh còn nằm ở việc tôi phải sống có trách nhiệm, có đạo đức, và luôn luôn trung thực. Tôi nhận thức rõ rằng, một xã hội chỉ có thể phát triển bền vững khi mỗi cá nhân đều biết tôn trọng pháp luật, sống có kỷ luật và góp phần giữ gìn trật tự xã hội. Việc tôi học tập chăm chỉ, làm việc hiệu quả, tuân thủ pháp luật chính là những hành động thiết thực để thể hiện trách nhiệm cá nhân đối với cộng đồng. Điều này đặc biệt quan trọng khi Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên mới của hội nhập và phát triển, nơi mỗi hành động, dù là nhỏ nhất, cũng góp phần vào sự thịnh vượng chung của đất nước.
Trách nhiệm của tôi cũng thể hiện rõ rệt qua các hành động cụ thể hướng đến cộng đồng. Tôi nhận thấy rằng, trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, việc bảo vệ môi trường, gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc, và tham gia các hoạt động tình nguyện là những cách thức thiết thực để đóng góp cho sự phát triển của xã hội. Tôi có thể tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường như trồng cây, hạn chế sử dụng đồ nhựa hay nhặt rác ở cộng đồng, qua đó giúp xây dựng một môi trường sống sạch đẹp và bền vững. Bên cạnh đó, việc tôi tham gia vào các chương trình tình nguyện, hỗ trợ người nghèo, hay giúp đỡ cộng đồng khi có thiên tai, dịch bệnh không chỉ là đóng góp về mặt vật chất mà còn là sự thể hiện tinh thần nhân ái, tinh thần đoàn kết, trách nhiệm đối với cộng đồng.
Đặc biệt, trong kỷ nguyên số, công nghệ và thông tin đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Trách nhiệm của tôi là không chỉ theo kịp những xu hướng công nghệ mới mà còn phải áp dụng chúng vào việc xây dựng đất nước. Tôi cần nâng cao kiến thức về công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo, và các công nghệ tiên tiến khác để có thể đóng góp vào việc phát triển nền kinh tế số của Việt Nam. Bằng cách học các kỹ năng số, sử dụng công nghệ thông tin thành thạo, tôi có thể tham gia vào các lĩnh vực như công nghệ, sáng tạo nội dung số, hay thậm chí khởi nghiệp trong môi trường kỹ thuật số. Những việc làm này không chỉ giúp tôi phát triển bản thân mà còn giúp đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước trong kỷ nguyên số hóa và toàn cầu hóa.
Một yếu tố không thể thiếu trong trách nhiệm của tôi là bảo vệ chủ quyền quốc gia và phát huy tinh thần tự tôn dân tộc. Tôi hiểu rằng, mặc dù Việt Nam đang sống trong hòa bình, nhưng chủ quyền lãnh thổ vẫn luôn là vấn đề quan trọng mà mỗi công dân phải nắm vững và bảo vệ. Trách nhiệm của tôi là nâng cao nhận thức về tình hình biển đảo, hiểu rõ về lịch sử và pháp lý liên quan đến chủ quyền lãnh thổ, và tham gia vào các phong trào bảo vệ chủ quyền, qua đó lan tỏa tinh thần yêu nước đúng đắn trong cộng đồng. Những hành động thiết thực như chia sẻ thông tin chính thống về chủ quyền, tham gia vào các chiến dịch tuyên truyền, hay đơn giản là tuân thủ pháp luật chính là cách tôi bảo vệ đất nước của mình.
Bên cạnh đó, trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, tôi nhận thức rằng trách nhiệm của bản thân trong việc đấu tranh chống lại các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực phản động, thù địch là vô cùng quan trọng. Những thế lực này luôn tìm cách xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành quả cách mạng và kích động chia rẽ nội bộ, với mục đích làm suy yếu lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, và chế độ. Họ cũng lợi dụng các vấn đề nhạy cảm như dân tộc, tôn giáo, hay các vụ việc tiêu cực để gieo rắc sự bất mãn, làm suy yếu niềm tin vào sự phát triển của đất nước. Để chống lại những âm mưu này, tôi không chỉ cần nhận thức rõ ràng mà còn phải hành động một cách thiết thực và cụ thể. Trước hết, tôi cần tự trang bị cho mình một nền tảng kiến thức vững vàng về lịch sử, chính trị, pháp luật để có thể nhận diện và phản bác kịp thời những luận điệu sai trái. Tôi sẽ chủ động tham gia vào các hoạt động tuyên truyền, đấu tranh qua mạng xã hội và các diễn đàn công cộng, cung cấp thông tin chính thống và đúng đắn để bảo vệ sự thật. Bên cạnh đó, tôi sẽ nỗ lực xây dựng một môi trường học tập, làm việc lành mạnh, không để những luận điệu xấu lan rộng, khuyến khích mọi người giữ vững niềm tin vào lý tưởng cách mạng và sự nghiệp chung của dân tộc. Hơn nữa, tôi cần chủ động tham gia vào các phong trào bảo vệ chủ quyền quốc gia, đặc biệt là trên các lĩnh vực như bảo vệ an ninh mạng, đấu tranh chống lại các hoạt động tuyên truyền chống phá. Cuối cùng, Việc giữ gìn sự đoàn kết, kiên định với các giá trị văn hóa truyền thống và bản sắc dân tộc cũng là một cách để tôi góp phần bảo vệ đất nước khỏi các thế lực thù địch Tôi có thể góp phần vào việc này bằng cách tìm hiểu về truyền thống, phong tục, lịch sử dân tộc và giới thiệu những giá trị ấy đến bạn bè quốc tế. Tham gia các hoạt động bảo tồn di sản văn hóa, hỗ trợ các nghệ nhân làng nghề, hay chỉ đơn giản là sử dụng và quảng bá sản phẩm thủ công, văn hóa Việt Nam chính là những hành động thiết thực tôi có thể làm.
Trách nhiệm của tôi trong việc xây dựng một đất nước Việt Nam mạnh mẽ, văn minh, anh hùng không chỉ dừng lại ở những lý thuyết hay lời nói, mà phải được thể hiện qua những hành động cụ thể, thiết thực và kiên trì mỗi ngày. Tôi hiểu rằng, để Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, mỗi cá nhân phải góp sức mình vào việc xây dựng nền tảng vững chắc cho sự phát triển, từ học tập, lao động, sáng tạo cho đến bảo vệ đất nước và gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc. Chỉ có như vậy, chúng ta mới thực sự xứng đáng với sự hy sinh của những thế hệ đi trước. Là một thanh niên của thế hệ mới, tôi ý thức rõ trách nhiệm của mình trong việc học tập, rèn luyện và cống hiến. Tôi mong muốn góp một phần công sức nhỏ bé vào công cuộc phát triển của đất nước, để Việt Nam không chỉ mạnh về kinh tế mà còn vững vàng về văn hóa, khoa học, công nghệ và có một vị trí xứng đáng trên bản đồ thế giới.
Kết thúc chiến tranh là bắt đầu của một hành trình mới - hành trình xây dựng và phát triển đất nước. Chiến thắng ngày 30 tháng 4 năm 1975 không chỉ là dấu mốc lịch sử vĩ đại mà còn là nguồn động lực mạnh mẽ, tiếp thêm sức mạnh và niềm tin cho thế hệ trẻ hôm nay. Trách nhiệm của chúng ta không chỉ là giữ gìn hòa bình, độc lập mà còn phải phát huy hết sức mạnh của tri thức, sáng tạo và lòng yêu nước để đóng góp vào công cuộc xây dựng một Việt Nam giàu mạnh, văn minh và tiến bộ. Mỗi cá nhân, với những hành động thiết thực trong học tập, lao động và cống hiến, sẽ cùng nhau góp phần hiện thực hóa khát vọng của dân tộc: một đất nước vững mạnh, hạnh phúc, và có vị thế xứng đáng trên bản đồ thế giới. Chính những nỗ lực không ngừng nghỉ của từng người trẻ hôm nay sẽ là tiền đề vững chắc để xây dựng tương lai tươi sáng cho đất nước, tạo dựng một xã hội thịnh vượng và một Việt Nam anh hùng trong thời đại mới.